Để đền đáp một phần những cống hiến, hy sinh của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, ngày 16 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 20/SL đặt “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”; từ đó đến nay đã trở thành một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta.
ĐỀ CƯƠNGTuyên truyền kỷ niệm 67 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ(27/7/1947 -27/7/2014)
***
I. Ý NGHĨA CHÍNH TRỊ, ĐẠO LÝ “UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN” CỦA NGÀY THƯƠNG BINH – LIỆT SĨ (NGÀY 27/7 HÀNG NĂM)
- Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại do Đảng ta lãnh đạo nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có biết bao người con của nhân dân ta đã anh dũng hy sinh, cống hiến xương máu, sức lực, tài sản và trí tuệ cho đất nước. Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc, hàng triệu người con ưu tú của Tổ quốc đã hy sinh hoặc cống hiến một phần thân thể của mình cho sự nghiệp cao cả của dân tộc, hàng trăm nghìn người vợ, người mẹ đã hiến dâng người chồng và nhiều người con cho Tổ quốc, điển hình như: Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở thôn Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, có 9 con và 1 con rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ; mẹ Phạm Thị Ngư ở xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận, có 8 con là liệt sĩ, bản thân mẹ là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; mẹ Trần Thị Mít, xã Hải Phú, huyện Hải Lǎng, tỉnh Quảng Trị, có 9 con là liệt sĩ; mẹ Nguyễn Thị Rành ở ấp Trúc Đèn, xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, có 8 con là liệt sĩ, bản thân bà là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; mẹ Lê Thị Tự ở thôn Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, có 9 con là liệt sĩ v.v.v… Tổ quốc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đời đời ghi nhớ công lao to lớn ấy.
- Để đền đáp một phần những cống hiến, hy sinh của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, ngày 16 tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 20/SL đặt “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”; từ đó đến nay đã trở thành một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, để nhân dân ta tỏ lòng “hiếu nghĩa bác ái” và bày tỏ sự biết ơn các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng. Ngày 27/7/1947 đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam, Nha thông tin, tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại từ ( Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh, liệt sĩ, và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ tịch chọn một ngày làm ngày “thương binh”. Sau khi cân nhắc về nhiều mặt, Hội nghị nhất trí đề nghị Trung ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày “thương binh toàn quốc”. Chiều 27/7/1947, một cuộc mít tinh quan trọng tổ chức tại huyện Đại Từ ( Bắc Thái) có 2000 người tham gia. Ban Tổ chức ngày “thương binh toàn quốc” đã trịnh trọng đọc thư của Hồ Chủ tịch. Trong thư Người cho biết đã ủng hộ một chiếc áo lụa của Hội Phụ nữ gửi biếu Người, một tháng lương và một bữa ăn trưa của nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Từ năm 1947, ngày “Thương binh” đã được tổ chức trọng thể thường kỳ hàng năm. Sinh thời năm nào vào dịp này, Hồ Chủ tịch đều có thư và quà gửi cho anh em thương binh và các gia đình liệt sĩ. Tháng 7 năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm giải quyết vấn đề liệt sĩ, gia đình liệt sĩ và công tác thương binh.
- Từ năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh- Liệt sĩ” để thể hiện đầy đủ hơn tình cảm, đạo lý, nghĩa vụ, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta và các thế hệ người Việt Nam đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.
- Trong 67 năm qua ( 1947 – 2014), Ngày Thương binh – Liệt sĩ đã đi vào lịch sử đất nước ta là ngày lễ lớn, hội tụ đầy đủ ý nghĩa chính trị, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc ta, nhân dân ta. Tổ chức kỷ niệm Ngày Thương binh- Liệt sĩ là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục ghi nhận, tôn vinh các liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng.
- Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn trân trọng đánh giá cao những cống hiến, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ đối với Tổ quốc. Thông qua việc đề ra và thực hiện đầy đủ chính sách xã hội đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng là động lực vật chất, tinh thần giúp họ vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách, làm chủ cuộc sống.
- Đảng, Nhà nước ta luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ cách mạng đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng. Sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập tự do của nhân dân là vô giá, không chỉ cho ngày hôm qua, hôm nay mà cho muôn đời con, cháu mai sau. Việc chăm sóc gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng là nghĩa vụ, trách nhiệm, niềm vinh dự của các cấp các ngành, các tổ chức xã hội và của tất cả mọi người, của thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau.
- Quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với công tác thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng là một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, có hiệu lực và hiệu quả cao. Các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân và mọi người, trên cơ sở nhận thức rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về hệ thống chính sách đó để quyết tâm tổ chức thực hiện hiệu quả cao và thiết thực. Làm tốt công tác đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, củng cố niềm tin của nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở vững chắc ổn định chính trị – xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trải qua chặng đường 67 năm (1947 – 2014) thực hiện công tác thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. Việc tổ chức kỷ niệm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7) năm nay là dịp để tổng kết đánh giá hiệu quả công tác quan trọng này của Đảng và Nhà nước ta về lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện. Đây cũng là dịp để các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân kiểm điểm công tác, đúc rút và phổ biến bài học kinh nghiệm quý; biểu dương những tập thể cá nhân có thành tích xuất sắc; tôn vinh các tấm gương điển hình tiên tiến của gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng; động viên mọi người khắc phục khó khăn, vượt lên làm chủ cuộc sống; khơi dậy và phát huy tiềm năng to lớn của xã hội để chăm sóc tốt hơn nữa các đối tượng chính sách xã hội.
II. THÀNH TỰU 67 NĂM CÔNG TÁC THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ, NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1. Về xây dựng và thực hiện chính sách, chế độ đãi ngộ
- Kể từ Sắc lệnh số 20/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và ban hành ngày 16 tháng 2 năm 1947 đặt “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ” đến nay Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và thực hiện thống nhất trong cả nước một hệ thống chính sách, chế độ đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng.
- Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xây dựng hệ thống chính sách, chế độ này là nhằm ghi nhận và tôn vinh thành tích; đền đáp một phần cống hiến hy sinh của đồng bào và chiến sĩ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc; bảo đảm cho người được hưởng chính sách, chế độ đãi ngộ, hoà nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống vật chất và tinh thần, có điều kiện đóng góp nhiều hơn nữa cho cộng đồng, xã hội.
- Các chính sách, chế độ đối với gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng ngày càng được mở rộng về đối tượng (thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến, người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh); các định mức trợ cấp đối với chính sách ưu đãi xã hội được mở rộng đối tượng và từng bước nâng cao; đa dạng hơn hình thức chăm sóc (chế độ nhà ở, ưu đãi thực hiện chính sách thuế, ưu đãi giáo dục đào tạo và chăm sóc sức khoẻ…).
- Việc ban hành và thực hiện Pháp lệnh “ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng” và Pháp lệnh “Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đã góp phần to lớn vào việc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của đất nước, góp phần ổn định xã hội, tác động sâu sắc làm tăng thêm tình cảm và trách nhiệm của các tầng lớp xã hội trong phong trào toàn dân chăm sóc người có công với cách mạng.
2. Về xây dựng và phát triển các tổ chức sự nghiệp đi đôi với tăng cường cơ sở vật chất, phát triển các trung tâm khoa học – sản xuất để phục vụ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng
- Đảng, Nhà nước ta có chủ trương, chính sách từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống các trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng, an dưỡng nhằm đảm bảo và tăng cường chất lượng chăm sóc thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng.
- Nhiều trung tâm phục hồi chức năng phục vụ thương binh, bệnh binh đã ra đời và hoạt động có hiệu quả tốt. Nhà nước đã tạo điều kiện và hỗ trợ nhiều cơ sở nghiên cứu, sản xuất phương tiện chuyên dùng cho thương binh và người tàn tật vì chiến tranh như chân giả, tay giả, xe lăn, nạng chống, giày dép, chỉnh hình…
- Nhà nước đã tổ chức xây dựng nhiều trường học, cơ sở đào tạo, trung tâm thực hành và các xưởng sản xuất phục vụ việc đào tạo, dạy nghề, sản xuất, kinh doanh dành cho các đối tượng thân nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng.
- Ngày càng xuất hiện nhiều công ty, xí nghiệp sản xuất kinh doanh do thương binh, bệnh binh làm chủ thu hút phần đông lao động là thương binh, bệnh binh, con, em thương binh, bệnh binh, liệt sĩ đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, đóng góp nguồn thu quy giá cho ngân sách Nhà nước.
- Với các điều kiện hiện có, Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết tốt nhiều di chứng thương tật cho thương binh, bệnh binh, góp phần phục hồi chức năng, phục hồi sức khoẻ, ổn định cuộc sống, hướng nghiệp và sắp xếp việc làm cho thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng.
3. Tổ chức phát động và thực hiện phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng
- Tính đến nay, cả nước hiện có khoảng 8,8 triệu đối tượng người có công, chiếm khoảng gần 10% dân số. Hiện còn trên 1,47 triệu đối tượng người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng của Nhà nước… Mặc dù hàng năm Nhà nước bố trí một khoản ngân sách không nhỏ để thực hiện chính sách ưu đãi người có công, tuy nhiên so với nhu cầu và thực tế cuộc sống của người có công đòi hỏi sự chung tay chia sẻ của toàn xã hội để người có công có cuộc sống ngày càng ổn định hơn. Từ đó đã xuất hiện Phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. phong trào đã động viên mọi nguồn lực, trước hết là các nguồn lực tại chỗ để giúp đỡ những người có công với cách mạng. Đây là phong trào có quy mô lớn, trên diện rộng, có sức thu hút và lay động lòng người, đem lại những kết quả hết sức to lớn, thiết thực.
- Thụ hưởng kết quả của phong trào này, nhiều thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng đã được giúp đỡ kịp thời, giải quyết được nhiều nhu cầu bức thiết về nhà ở, việc làm, học tập, chăm sóc sức khoẻ và các nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần hàng ngày khác.
- Nhiều phong trào thi đua yêu nước hướng tới mục tiêu chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng đã được tổ chức rất thành công. Tiêu biểu là phong trào “nhận đón thương binh, bệnh binh về gia đình, sắp xếp việc làm và nuôi dưỡng”, phong trào “người con hiếu thảo chăm sóc bố mẹ liệt sĩ”; các phong trào tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng; phong trào Trần Quốc Toản – các cháu thiếu niên giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ…Các phong trào này diễn ra trên phạm vi cả nước, đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, các phong trào đã trải qua các thời kỳ cách mạng từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến nay và mang lại hiệu quả thiết thực. Từ phong trào này đã dần phát triển thành các chương trình lớn như: xây dựng nhà tình nghĩa; đón thương binh nặng về chăm sóc tại gia đình; nhận chăm sóc bố mẹ liệt sĩ cô đơn, trẻ em con liệt sĩ không nơi nương tựa; Phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng… Các chương trình này đang là nhiệm vụ quan trọng được Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội và toàn thể nhân dân ta quyết tâm thực hiện.
- Cùng với các chương trình trên, nhân dân trong cả nước còn sáng tạo ra nhiều mô hình, nhiều hình thức đền ơn đáp nghĩa và ngày xuât hiện nhiều hơn các gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên tiến của công tác này. Điển hình như mô hình phân công, vận động đơn vị bộ đội, doanh nghiệp tìm việc làm cho thân nhân người có công do Bộ Quốc phòng thực hiện, mà khởi đầu là ý kiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao cho các cơ quan chức năng lo việc làm cho con em thương binh nặng ở Trung tâm Điều dưỡng thương binh nặng Thuận Thành, Bắc Ninh; mô hình vườn cây cho gia đình người có công ở Thái Nguyên… Những mô hình này cần được phổ biến, nhân rộng.
- Các phong trào chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng không chỉ kế thừa, phát huy những giá trị tinh thần, truyền thống nhân ái, thuỷ chung uống nước nhớ nguồn của dân tộc, làm đẹp thêm “tình làng nghĩa xóm” mà còn bù đắp những thiếu hụt của các gia đình chính sách, bổ sung những nội dung mà chính sách Nhà nước, với tính cách là mặt bằng chung cho từng loại đối tượng khó có thể quy định hết, đồng thời cũng tạo tiền đề để các gia đình chính sách nỗ lực vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ chế mới.
- Chỉ tính riêng trong 05 năm trở lại đây, được sự quan tâm hưởng ứng của các bộ, ngành, đoàn thể và nhân dân cả nước, Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” cả nước vận động xây dựng được 1.263 tỷ đồng, trong đó, Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” Trung ương đạt 17,5 tỷ đồng. Với số tiền vận động trên, hàng năm Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” Trung ương đã phân bổ, hỗ trợ cho các tỉnh, thành phố trong cả nước để xây mới, sửa chữa nhà tình nghĩa cho đối tượng chính sách, ủng hộ gia đình chính sách gặp thiên tai bão lụt, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa… tổng giá trị lên tới 14.567 tỷ đồng, đồng thời hỗ trợ cho 187 thương, bệnh binh nặng của các trung tâm nuôi dưỡng về sinh sống tại gia đình trị giá hơn 5,2 tỷ đồng. Tính đến nay, cả nước chỉ còn dưới 7% gia đình thương binh, liệt sĩ là hộ nghèo trong tổng số hơn 8 triệu người được hưởng chính sách của cả nước; 95% gia đình chính sách đạt mức sống trung bình trở lên so với địa phương nơi sinh sống. Đó thực sự là con số có ý nghĩa thiết thực, thể hiện tình cảm, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, quân đội và toàn dân ta đối với các đối tượng chính sách.
- Đến nay, Nhà nước đã quyết định phong tặng và truy tặng gần 50 ngàn bà mẹ danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng”. Từ đó, Phong trào phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng đã được phát động và nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội, hiện nay cả nước có hơn 4 nghìn Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống, 100% Mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được các cơ quan, đơn vị, cá nhân nhận phụng dưỡng đến cuối đời với số tiền lên tới hàng trăm tỷ đồng. Đồng thời trong 05 năm qua đã có hạng vạn thương binh nặng các các trung tâm nuôi dưỡng được các địa phương đón về nuôi dưỡng tại gia đình.
- Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã được tổng kết và nhân rộng điển hình ở các khu dân cư, xã, phường. Cả nước đã có trên 90% xã, phường, thị trấn được uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố tặng bằng công nhận, trong đó nhiều tỉnh, thành phố đã phấn đấu đạt 100% xã, phường, thị trấn được công nhận xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ góp phần nâng cao đời sống gia đình chính sách khó khăn.
4. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các gia đình chính sách
- Các thương binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng là những người trải nghiệm sâu sắc cuộc sống, sống có bản lĩnh và giàu khát vọng, có khả năng vươn lên làm chủ đời sống trong mọi tình huống.
- Tiếp nhận nhiều mặt quan tâm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân và sự giúp đỡ nghĩa tình của con người và xã hội, các gia đình chính sách có thêm nhiều thuận lợi để khắc phục khó khăn, vượt lên trên di chứng chiến tranh, phát huy sức mạnh tinh thần quả cảm, tạo lập cuộc sống an bình, hoà nhập cộng đồng.
- Trong cả nước đã có nhiều tấm gương thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng trên nhiều lĩnh vực: học tập, lao động sản xuất, kinh doanh và họat động văn hoá xã hội, vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho chính mình, làm giàu cho quê hương, đất nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Thể hiện trách nhiệm cao của mỗi thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, phần đấu trở thành những “Công dân kiểu mẫu”, “Gia đình cách mạng gương mẫu”, theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là những tấm gương sáng để mọi người noi theo.
5. Giải quyết các tồn đọng về chính sách sau chiến tranh
- Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm giải quyết các tồn đọng về chính sách sau chiến tranh. Ngành lao động – thương binh và xã hội đã xác nhận, quản lý, thực hiện chính sách đối với các đối tượng như: người hoạt động cách mạng trước năm 1945, người hoạt động cách mạng tiền khởi nghĩa, Anh hùng Lực lượng vũ trang, gia đình liệt sĩ, thân nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người hoạt động cách mạng kháng chiến bị địch bắt tù đầy, người có công giúp đỡ cách mạng, thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, người nhiễm chất độc của Mỹ trong chiến tranh…
- Quan tâm đầu tư xây dựng, tu bổ, chỉnh trang các nghĩa trang liệt sĩ, nơi yên nghỉ của những người con ưu tú của đất nước. Nhiều nghĩa trang liệt sĩ đã trở thành công trình văn hóa – du lịch lịch sử nổi tiếng như các nghĩa trang: Điện Biên Phủ, Hàng Dương, Trường Sơn, Đường 9, Đồng Tháp…..
- Cùng với việc xây dựng và không ngừng tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, nhiều công trình tưởng niệm liệt sĩ, tượng đài liệt sĩ, nhà bia liệt sĩ….đã được xây dựng khang trang. Tên của nhiều liệt sĩ tiêu biểu đã được đặt cho tên đường, tên phố, nhà trường, bệnh viện, các công trình kiến trúc… có ý nghĩa giáo dục nhân văn sâu sắc.
- Quan tâm từng bước giải quyết những vẫn đề trợ cấp xã hội nhằm bảo đảm đời sống cho các đối tượng chính sách xã hội ở mức độ huy động và động viên cao nhất tiềm lực, khả năng của đất nước và nhân dân. Nhiều thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng giảm sút hoặc không có khả năng lao động đã nhận được sự trợ giúp rất quan trọng từ nhiều nguồn lực của xã hội.
- Việc tìm kiếm, xác minh, kết luận các trường hợp bị thương, hy sinh, tù đầy, mất tích, nhiễm chất độc hoá học….còn tồn đọng đã được tích cực, thể hiện sự trân trọng, biết ơn của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân.
- Công tác tìm kiếm, phát hiện, quy tập mộ liệt sĩ được chú trọng và thu hút được nhiều kết quả trên nhiều mặt, đáp ứng đúng yêu cầu tình cảm đối với thế hệ sau chiến tranh.
III. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CHĂM LO CHO CÁC GIA ĐÌNH THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ VÀ NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
- Công tác thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng là công tác lớn, rất quan trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cần tập trung hơn nữa, chăm sóc giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên, nhân dân; chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương, chính sách ưu đãi xã hội; động viên toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với cách mạng, người hưởng chính sách xã hội.
- Việc thực hiện đầy đủ các chính sách ưu đãi xã hội cần gắn với việc không ngừng hoàn thiện chính sách, chế độ, giải quyết các tồn đọng bất hợp lý, sửa chữa sai lệch trong việc thực hiện chính sách, chế độ, xã hội hoá công tác này nhằm góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày trong từng bước và từng chính sách phát triển.
- Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân về chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước, về những thành quả của công tác thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Phát hiện kịp thời, khen thưởng xứng đáng, nhân diện rộng những nhân tố mới và điển hình tiên tiến xuất hiện trong phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, nhất là tấm gương thương binh, thân nhân liệt sĩ, thương bình, người có công với cách mạng vượt khó, vươn lên tạo dựng cuộc sống mới và đóng góp tích cực cho quê hương, đất nước.
- Tiếp tục đẩy mạnh xã hội việc chăm sóc những người thuộc đối tượng chính sách ưu đãi xã hội nhất là về lao động, việc làm, nhà ở, chăm sóc y tế, giúp đỡ phương tiện đi lại, chăm sóc đảm bảo đời sống sinh hoạt và đáp ứng nhu cầu tâm lý, tình cảm, tập trung xây dựng phát triển quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” trên cơ sở phát huy tinh thần “Hiếu nghĩa bác ái”, đề cao tình thương và trách nhiệm, huy động mọi nguồn lực xã hội; đồng thời, coi trọng việc phân bổ, sử dụng quỹ đúng đối tượng, dân chủ, công bằng, minh bạch.
- Chăm sóc hơn nữa thế hệ mới, con của các đối tượng hưởng chính sách ưu đãi xã hội, về học tập việc làm và đời sống; chú trọng giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng của đất nước, quê hương, gia đình để bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức cách mạng, hình thành nên lớp công dân mới ưu tú, xứng đáng với những hy sinh, công hiến vô giá của lớp lớp cha anh.
- Nâng cao hơn nữa nghĩa vụ và trách nhiệm chính trị của các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và vận động nhân dân thực hiện đầy đủ, đúng đắn các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng trong giai đoạn cách mạng mới; tập trung giải quyết tốt các vấn đề còn tồn đọng sau chiến tranh; đảm bảo cho các đối tượng hưởng chế độ ưu đãi người có công có mức sống trên mức sống bình quân của xã hội; đẩy mạnh việc tìm kiếm, quy tập mộ liệt sỹ và chỉnh trang, tu bổ, xây dựng mới các công trình ghi công các liệt sĩ đáp ững tốt hơn nhu cầu tình cảm, tâm linh; khắc phục và hạn chế mức thấp nhất những thiếu sót, khuyết điểm của công tác quan trọng này.
- Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện hơn nữa các chính sách ưu đãi người có công; phát hiện và sử lý những bất hợp lý, chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp với thực tế cuộc sông; đẩy mạnh cải cách hành chính trong thực hiện chính sách, kịp thời sơ kết, tổng kết các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, phổ biến kinh nghiệm các ngành, các cấp, các địa phương, cơ sở làm tốt công tác này; tăng cường quan hệ quốc tế, nhất là với hai nước Lào và Camphuchia trong giải quyết các vấn đề liện quan tới thương binh liệt, người có công với nước.
X.H
(sưu tầm)
Nguồn: Tài khoản Hệ thống
Hôm nay: 104
Tổng lượng truy cập: 620816