ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG
ĐẢNG ỦY KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH
LỊCH SỬ
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH HẢI DƯƠNG (1952 - 2020)
CHỈ ĐẠO NGHIÊN CỨU BIÊN SOẠN TÁI BẢN, BỔ SUNG ẤN PHẨM LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH HẢI DƯƠNG (1952 - 2020)
Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh khóa IX, nhiệm kỳ 2020 – 2025
CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG
Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh khóa IX
BAN CHỈ ĐẠO NGHIÊN CỨU BIÊN SOẠN GIAI ĐOẠN 1952 – 2000
Đ/c Phùng Văn Hưng
- Phó Bí thư Đảng ủy
Đ/c Nguyễn Thị Tỉnh
- UVBTV, Trưởng ban Tuyên giáo
Đ/c Phạm Bá Tiếm
- UVBTV, Chủ nhiệm UBKT
Đ/c Nguyễn Văn Điệp
- UVBTV, Trưởng ban Tổ chức
Đ/c Đào Thanh Tân
- Chánh Văn phòng
BAN CHỈ ĐẠO NGHIÊN CỨU TÁI BẢN, BỔ SUNG GIAI ĐOẠN 1952 - 2020
Đ/c Nguyễn Thúy Hà
- Bí thư Đảng ủy Khối
Đ/c Nguyễn Thị Thu Huyền
- Phó Bí thư Đảng ủy Khối
Đ/c Trần Minh Đức
Đ/c Nguyễn Hữu Quang
Đ/c Nguyễn Hồng Quân
Đ/c Nguyễn Thị Tuyết
- UVBTV, Chánh Văn phòng
LỜI GIỚI THIỆU
Sau khi được thành lập (10/6/1940), dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã lãnh đạo nhân dân địa phương đánh đổ chế độ thực dân - phong kiến, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ chuyên chính vô sản, bảo vệ chính quyền cách mạng và xây dựng chế độ mới.
Từ tháng 12/1946, cách mạng chuyển sang nhiệm vụ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc, Tỉnh ủy Hải Dương đã từng bước lập ra các cơ quan chuyên môn của hệ thống chính trị bao gồm Đảng - chính quyền - đoàn thể quần chúng. Đầu năm 1952, thành lập các Liên chi Đảng A, B, C trực thuộc Tỉnh ủy, làm tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến - Hành chính tỉnh trên lĩnh vực công tác của mình. Liên chi A là Khối Dân chính đảng, là tổ chức đảng cấp trên của các cơ sở đảng cơ quan, ban, ngành, đoàn thể tỉnh. Các Liên chi A, B, C là tiền thân của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh sau này.
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chuyển sang làm nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh; tháng 10/1954, Liên chi Đảng A lấy tên là Liên chi Dân chính đảng; tháng 9/1959, Liên chi Dân chính đảng lại đổi thành Đảng ủy Dân chính đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội III của Đảng, tháng 10/1961, Tỉnh ủy Hải Dương quyết định thành lập Đảng ủy Các cơ quan tỉnh. Tháng 5/1964, tình hình cách mạng của cả nước có nhiều biến đổi, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Hải Dương quyết định chia tách Đảng ủy Các cơ quan tỉnh thành Đảng ủy các Khối trực thuộc Tỉnh ủy, trong đó có Khối Dân chính đảng. Từ tháng 4/1978 đến tháng 6/1983, các cơ sở đảng ở các Khối nằm trên địa bàn thị xã Hải Dương chuyển về trực thuộc Thị ủy Hải Dương. Tháng 7/1983, Tỉnh ủy Hải Hưng quyết định thành lập Đảng ủy Khối Dân chính đảng và Đảng ủy Khối Kinh tế. Các chi, đảng bộ ở các Khối về sinh hoạt ở Thị ủy Hải Dương trước đây được chuyển về Khối Dân chính đảng và Khối Kinh tế. Tháng 9/1985, thực hiện đề án công tác tổ chức của Trung ương, Tỉnh ủy Hải Hưng quyết định sáp nhập Đảng ủy Khối Dân chính đảng và Khối Kinh tế thành Đảng ủy Các cơ quan tỉnh. Từ ngày 22/7/2010 đến nay, theo Quyết định số 1221-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh được đổi tên thành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hải Dương.
Kể từ khi thành lập năm 1952 đến nay, Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hải Dương đã trải qua 68 năm xây dựng và phát triển, đã có những đóng góp nhất định vào kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh. Trong các giai đoạn lịch sử, mặc dù có sự biến động nhiều về tổ chức, nhưng Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh luôn giữ vững truyền thống, quan tâm lãnh đạo xây dựng Đảng bộ Khối và các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; giáo dục động viên cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh giao. Đội ngũ cán bộ, đảng viên từ các đồng chí giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh và những quần chúng ngoài Đảng trong Đảng bộ Khối đều tận tụy với công việc, gương mẫu thể hiện tinh thần trách nhiệm trong quá trình xây dựng và phát triển của Đảng bộ Khối.
Năm 2004, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh khóa V đã tổ chức sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, biên soạn và phát hành cuốn “Lịch sử Đảng bộ Các cơ quan tỉnh (1952 - 2000)” để ghi lại những mốc son lịch sử vẻ vang của Đảng bộ, đồng thời tổng kết những bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo và kết quả công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ trong suốt chặng đường 48 năm xây dựng và phát triển.
Cuốn sách là tài liệu quý, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, lòng tự hào về dân tộc, về quê hương, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên vào sự lãnh đạo của Đảng, động viên cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống tốt đẹp của Đảng bộ, nỗ lực phấn đấu vươn lên. Sau khi phát hành, cuốn sách đã được đông đảo cán bộ, đảng viên, người lao động trong các cơ quan tỉnh và nhân dân trong, ngoài tỉnh đón nhận và đánh giá cao.
Tuy nhiên, qua quá trình phát triển của Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh, cuốn sách mới chỉ ghi lại được những sự kiện từ năm 1952 đến năm 2000 và sau một thời gian phát hành tới bạn đọc, cuốn sách đã nhận được các ý kiến góp ý bổ sung có giá trị về một số thông tin, nhân vật. Trước sự mong muốn chung của Đảng bộ và các thế hệ cán bộ, đảng viên trong việc ghi nhận, tiếp nối đầy đủ tiến trình lịch sử, những sự kiện, thành tựu mà Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh đạt được từ năm 1952 đến năm 2020 thiết thực chào mừng kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh (1952 - 2022), Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh khóa IX đã quyết định sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn bổ sung và phát hành Ấn phẩm “Lịch sử Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hải Dương (1952 - 2020)” trên cơ sở kế thừa nội dung của cuốn Lịch sử Đảng bộ Các cơ quan tỉnh (1952 - 2000) và biên soạn mới giai đoạn 2000 - 2020.
Với tinh thần trách nhiệm cao của Ban chỉ đạo, Ban biên soạn, Ban sưu tầm tư liệu và sự tham gia góp ý của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt qua các thời kỳ; của cán bộ Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng, lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hải Dương, Ấn phẩm “Lịch sử Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hải Dương (1952 - 2020)” được biên soạn và phát hành nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh. Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh khóa IX xin trân trọng giới thiệu Ấn phẩm đến với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong toàn Đảng bộ Khối cùng bạn đọc xa gần.
Nhân dịp này, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện của Thường trực Tỉnh ủy, sự phối hợp giúp đỡ của Lãnh đạo, cán bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hải Dương, các tập thể, cá nhân đã cung cấp tư liệu, tham gia góp ý để Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh hoàn thành việc tái bản, biên soạn, phát hành Ấn phẩm Lịch sử này.
Trong quá trình triển khai thực hiện, mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng không tránh khỏi thiếu sót, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh rất mong nhận được sự đóng góp, chia sẻ của các đồng chí cán bộ lãnh đạo các cấp, các đồng chí đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong Đảng bộ Khối, cùng bạn đọc.
T/M BAN THƯỜNG VỤ
BÍ THƯ
Nguyễn Thúy Hà
Chương I
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC LIÊN CHI ĐẢNG A-B-C, ĐẢNG ỦY DÂN CHÍNH ĐẢNG
VÀ ĐẢNG ỦY CÁC CƠ QUAN TỈNH HẢI DƯƠNG (1952 -1964)
Hải Dương là một tỉnh nằm ở Đồng bằng Bắc Bộ; phía Đông Bắc giáp huyện An Hải (Hải Phòng); phía Tây giáp huyện Mỹ Hào, Ân Thi, Phù Cừ (Hưng Yên); phía Nam giáp (Thái Bình) và huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng); phía Bắc giáp huyện Lục Ngạn (Bắc Giang), Đông Triều (Quảng Ninh).
Năm 1947, các huyện Đông Triều, Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn chuyển về tỉnh Hồng Quảng. Năm 1952 huyện Vĩnh Bảo cắt về tỉnh Kiến An. Năm 1954 các huyện Đông Triều, Nam Sách, Chí Linh, Kinh Môn lại chuyển về Hải Dương. Năm 1960, huyện Đông Triều lại chuyển về tỉnh Hồng Quảng.
Ngày 26/01/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết số 504-NQ/QH hợp nhất 2 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Ngày 6/11/1996, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 10 phê chuẩn tái lập tỉnh Hải Dương và Hưng Yên.
Hiện nay, tỉnh Hải Dương có 12 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 02 thành phố (Hải Dương, Chí Linh), 01 thị xã (Kinh Môn) và 9 huyện (Bình Giang, Cẩm Giàng, Gia Lộc, Kim Thành, Nam Sách, Ninh Giang, Thanh Hà, Thanh Miện, Tứ Kỳ) với 235 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 47 phường, 178 xã và 10 thị trấn. Diện tích đất tự nhiên 1.668,20 km², dân số khoảng 1.917.000 người, đông thứ 8 về số dân trên cả nước; mật độ dân số của tỉnh là 1.150 người/km² (Niên giám thống kê năm 2020).
Hải Dương là một tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Nhưng từ lâu Hải Dương đã có một số nghề phụ như: Làm gốm sứ ở Làng Cậy, chế tác vàng bạc ở Châu Khê (Bình Giang), làm chiếu cói ở nhiều xã thuộc khu Hà Đông (Thanh Hà), Khu Hạ (Tứ Kỳ), nghề đục đá ở Kính Chủ (Kinh Môn), làm bánh gai (Ninh Giang), bánh đậu ở thành phố Hải Dương và đồ gỗ ở Đông Giao (Cẩm Giàng)...
Ngay từ những ngày đầu an cư, lập nghiệp, nhân dân Hải Dương đã tự rèn luyện và tạo lập cho mình đức tính cần cù, kiên trì trong lao động; say mê, sáng tạo trong học tập; kiên cường, mưu trí, dũng cảm trong đấu tranh, chất phác, giản dị trong cuộc sống; bao dung, nghĩa khí trong ứng xử, đoàn kết trong tình làng nghĩa xóm, yêu quê hương, đất nước...
Hải Dương là mảnh đất đã sản sinh nhiều người học rộng, tài cao như Đại danh y Tuệ Tĩnh (Cẩm Giàng), Nguyễn Đại Năng, Phạm Sư Mệnh (Kinh Môn), Vũ Hữu (Bình Giang), Mạc Đĩnh Chi (Chí Linh); điểm nổi bật nhất ở vùng đất này là truyền thống thượng võ, nơi sản sinh nhiều nhà quân sự như Khúc Thừa Dụ (Ninh Giang); Yết Kiêu, Nguyễn Chế Nghĩa (Gia Lộc)...Đặc biệt mảnh đất Hải Dương còn nuôi dưỡng, hội tụ những nhà quân sự, chính trị, nhà giáo lỗi lạc của dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Chu Văn An...
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Trước sự bóc lột và cai trị hết sức dã man tàn bạo của chúng, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Hải Dương đã tham gia các phong trào: Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, để tang cụ Phan Chu Trinh, đòi thả cụ Phan Bội Châu và đấu tranh chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ của Việt Nam quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu.
Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại, với lòng yêu nước, thương dân tha thiết, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Ngày 03/02/1930, đồng chí đã chủ trì hợp nhất các tổ chức Đảng của 3 miền thành Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng (Trung Quốc).
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930), ở Hải Dương đã có Chi bộ Đảng Cộng sản mỏ than Mạo Khê (Đông Triều)1, Đọ Xá (Chí Linh) được thành lập. Hưởng ứng cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, các chi bộ lãnh đạo nhân dân treo cờ búa liềm, tổ chức diễn thuyết về cách mạng để thức tỉnh quần chúng và tập hợp lực lượng. Phong trào vừa phát triển thì cuộc khởi nghĩa của tổ chức Việt Nam quốc dân Đảng ở huyện Vĩnh Bảo bị khủng bố, nhiều đảng viên trung kiên của tổ chức này và quần chúng tham gia cách mạng sa vào tay giặc. Phong trào cách mạng ở Hải Dương tạm lắng xuống.
Cuối năm 1932, đồng chí Nguyễn Lương Bằng trốn khỏi nhà tù thực dân về Ấp Dọn (Bình Giang) xây dựng cơ sở tiếp tục hoạt động, đồng chí đã cho ra báo "Công Nông" để tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng, nhưng được một thời gian ngắn bị lộ, đồng chí phải chuyển đi địa bàn khác, phong trào lại lắng xuống.
Từ năm 1936 đến năm 1939, tận dụng thời cơ Mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi, Đảng ta đã thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. Thời gian này ở Hải Dương, cơ sở cách mạng được phát triển. Các tổ chức công khai hợp pháp như "Hội tương tế", "Ái hữu", "Truyền bá quốc ngữ..." được thành lập. Sách báo công khai của Đảng, của các đoàn thể như báo "Dân chúng", "Đời nay", "Tin tức"...được truyền bá rộng rãi, góp phần vào việc tuyên truyền giáo dục và hướng dẫn quần chúng trong tỉnh đấu tranh đòi tự do, dân chủ.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ đã tác động lớn đến phong trào cách mạng Việt Nam nói chung và Hải Dương nói riêng. Ở Hải Dương, địch khủng bố dữ dội, một số cán bộ, đảng viên bị bắt, nhiều cơ sở cách mạng bị phá.
Cuối năm 1939, nhờ sự chuyển hướng kịp thời của Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ và Liên tỉnh B, phong trào cách mạng ở Hải Dương từng bước được khôi phục, phát triển, đường dây liên lạc với Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ được chắp nối.
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng ở các nơi trong tỉnh, đầu năm 1940, Xứ ủy Bắc Kỳ cử các đồng chí Nguyễn Mạnh Hoan, Chu Thị Kim Sơn, Nguyễn Tấn Phúc về Hải Dương để tăng cường lãnh đạo. Ngày 10/6/1940, Hội nghị thành lập Ban Tỉnh ủy lâm thời được triệu tập tại nhà cụ Lê Thị Thạnh thôn Tạ Xá (Nam Sách).
Tỉnh ủy lâm thời Hải Dương được thành lập, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng ở tỉnh Hải Dương. Từ đây, nhân dân Hải Dương có tổ chức Đảng Cộng sản chân chính trực tiếp lãnh đạo. Cũng từ đây phong trào cách mạng ở Hải Dương gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Tỉnh ủy lâm thời năm 1940 - 1941, đặc biệt là những năm 1944 - 1945 phong trào cách mạng ở Hải Dương phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Từ phong trào phát triển thành cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 thắng lợi, lập ra chính quyền cách mạng của dân, do dân và vì dân.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo nhân dân bước vào nhiệm vụ củng cố chính quyền, xây dựng chế độ mới và chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tháng 6/1946, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ nhất được tổ chức tại ấp Vĩnh Long, huyện Cẩm Giàng. Đại hội kiểm điểm, đánh giá những việc đã làm được và chưa làm được từ sau ngày giành chính quyền cách mạng (T8/1945); thảo luận Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng "Kháng chiến kiến quốc", đề ra nhiệm vụ chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh mới. Do đặc điểm tình hình của những ngày mới giành chính quyền, các cơ quan tham mưu giúp việc cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh chưa thành lập, các đồng chí Tỉnh ủy viên trực tiếp phụ trách từng công việc.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sau hơn 3 tháng tổ chức chiến đấu, ổn định sinh hoạt cho các cơ quan và đồng bào tản cư, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ II họp tại thôn Triều Dương, xã Hòa Bình (nay là xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện) tháng 4/1947 1. Để giúp Tỉnh ủy nắm tình hình và chỉ đạo kịp thời, tháng 8/1947, Tỉnh ủy đã thành lập một số tiểu ban: Tiểu ban Tuyên huấn, Tiểu ban Kinh tế, Tiểu ban Công tác đội. Giữa tháng 2/1948 trước tình hình, âm mưu mới của địch, Đảng bộ tỉnh Hải Dương triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ III họp tại đình Xuyên Hử (thôn Đông Cao, xã Xuyên Hử, huyện Ninh Giang)2. Sau Đại hội, Tỉnh ủy chính thức thành lập các Ban của Tỉnh ủy: Ban Tổ chức, Ban Kiểm tra, Ban Tuyên huấn, Ban Dân vận[1]...Tiếp đó Ủy ban Kháng chiến - Hành chính tỉnh cũng kiện toàn, củng cố và thành lập mới một số đơn vị: Ty Giao thông, Ty Kinh tài, Ty Văn hoá - Văn nghệ, Ty Giáo dục, Ty Y tế...Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các đơn vị mới thành lập, ngày 15/02/1952, Tỉnh ủy họp quyết định thành lập các liên chi bộ Đảng trực thuộc Tỉnh ủy theo các khối công tác của các cơ quan chuyên môn với tên gọi là Liên chi A, Liên chi B, Liên chi C2.
Các liên chi bộ đảng ra đời làm nhiệm vụ giúp Tỉnh ủy tổ chức học tập các chỉ thị, nghị quyết, các chủ trương, đường lối, chính sách... của Đảng, của Tỉnh ủy, làm tốt công tác xây dựng Đảng ở liên chi mình, động viên, giúp đỡ lẫn nhau để mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng trong cơ quan đoàn kết, phấn khởi, tin tưởng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, do thực tế và yêu cầu của cuộc kháng chiến, cán bộ đảng viên ở các ban, ngành, đoàn thể của Tỉnh ủy, Ủy ban Kháng chiến - Hành chính tỉnh thường xuyên có sự thay đổi đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các cấp bộ Đảng.
Tháng 2/1954, Tỉnh ủy chủ trương kiện toàn củng cố các cấp ủy đảng, đặc biệt đối với cấp ủy đảng của các liên chi. Tuy nhiên, để phục vụ cho nhu cầu của cuộc kháng chiến, cấp trên vẫn liên tục điều động cán bộ, đảng viên, cấp ủy ở các đơn vị đi nhận nhiệm vụ mới. Trong khi đó việc đề bạt, bổ nhiệm cấp trên chưa chuẩn y kịp nên thời gian này các liên chi đều không có bí thư. Để khắc phục tình trạng thiếu cán bộ, tháng 6/1954, Tỉnh ủy có chủ trương sáp nhập Liên chi A với Liên chi B, còn Liên chi C tách thành 2 liên chi. Song do cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang bước vào giai đoạn quyết liệt nên việc sáp nhập các liên chi không thực hiện được.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đất nước bước sang thời kỳ cách mạng mới. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân và dân cả nước thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: Vừa đấu tranh với đế quốc Mỹ ở miền Nam, vừa xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Để giúp Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân trong tỉnh thực hiện các nhiệm vụ trên, tháng 10/1954 Tỉnh ủy có chủ trương thành lập Liên chi Dân chính đảng, trên cơ sở hợp nhất các liên chi A, B, C...Do yêu cầu nhiệm vụ đột xuất, nhiều cán bộ, đảng viên, cấp ủy trong Liên chi Dân chính đảng được điều động đi Hải Phòng, đi phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất. Mặt khác sau khi đoàn cán bộ giảm tô, cải cách ruộng đất về địa phương làm nhiệm vụ, vai trò chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy đảng, trong đó có Liên chi Dân chính đảng rất hạn chế. Mọi hoạt động của địa phương từ tỉnh xuống xã đều do đoàn, đội giảm tô, cải cách ruộng đất tổ chức thực hiện.
Từ nửa cuối năm 1956, sau khi phát hiện trong quá trình tiến hành giảm tô, cải cách ruộng đất ở các địa phương có nhiều sai phạm, ngày 18/8/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào, cán bộ và nhân dân cả nước. Thư Bác với nội dung cơ bản là: Chủ trương cải cách ruộng đất là đúng; quá trình triển khai có mắc khuyết điểm nghiêm trọng. Đúng ta phát huy, sai đâu ta sửa đấy. Mọi người đồng tâm sửa chữa sai lầm...Tháng 9/1956, Hội nghị lần thứ 10 (khoá II) Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, triển khai kế hoạch sửa chữa sai lầm của cải cách ruộng đất.
Thực hiện kế hoạch sửa chữa sai lầm, Tỉnh ủy Hải Dương đã chỉnh đốn bộ máy các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh. Trước hết là kiện toàn tổ chức các cấp ủy đảng. Do đó, từ cuối năm 1956, một số cán bộ, đảng viên trong giảm tô, cải cách ruộng đất bị xử lý oan được trả lại đảng tịch, chức vụ cũ. Các đồng chí đi phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất nay trở về các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể cũ công tác và từng bước đi vào ổn định. Liên chi Dân chính đảng trở lại hoạt động bình thường.
Đầu năm 1957, toàn Liên chi Dân chính đảng có 25 chi bộ. Cuối tháng 4/1957, Tỉnh ủy quyết định tách các chi bộ Khối Kinh tế ra khỏi Liên chi Dân chính đảng thành lập Liên chi Kinh tế - Tài chính.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, tháng 5/1957, Liên chi Kinh tế - Tài chính được thành lập gồm 9 chi bộ, với tổng số 502 đảng viên. Các chi ủy của 5 chi bộ: Lương thực, Ngân hàng, Rượu, Công thương và Nông Hải sản vừa mới bầu lại; 03 chi bộ: Thực phẩm, Bông vải sợi, Bách hóa vừa được chỉ định Ban Chấp hành mới. Còn 02 chi bộ Tài chính, Thuế vụ chưa bầu lại. Số lượng chi ủy viên ở mỗi chi bộ có từ 3 đến 6 đồng chí. Ban Chấp hành Liên chi Dân chính đảng có 11 đồng chí, đồng chí Lưu Thành Nhân làm Bí thư, đồng chí Đào Nguyên Kiệm được cử làm Phó Bí thư. Sau đồng chí Đào Nguyên Kiệm chuyển công tác khác, Ban Chấp hành bầu đồng chí Tứ làm Phó Bí thư và bầu đồng chí Chinh vào Ban Thường vụ.
Sau khi tách một số chi bộ, để thành lập Liên chi Kinh tế - Tài chính, đầu tháng 7/1957 Liên chi Dân chính đảng chuyển 2 chi bộ Thương binh về huyện Bình Giang và huyện Ninh Giang quản lý, đồng thời thành lập một số chi bộ mới. Cuối tháng 7/1957, Liên chi Dân chính đảng có 20 chi bộ ở hầu hết các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh, trong đó có các chi bộ ghép như: Chi bộ Ủy ban hành chính với Toà án; Chi bộ Công - Thanh - Phụ, Chi bộ Mặt trận - Tôn giáo.
Ngày 05/11/1957, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Liên chi Dân chính đảng đã tổ chức Hội nghị đại biểu để bầu Ban Chấp hành mới. Hội nghị đã bầu 8 đồng chí vào Ban Chấp hành, đồng chí Vũ Bách (Quảng) được bầu giữ chức Phó Bí thư Thường trực Liên chi. Cũng trong thời gian này, Tỉnh ủy đã cử đồng chí Lưu Thành Nhân, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy kiêm Bí thư Liên chi Dân chính đảng.
Ngày 18/7/1959, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 148-CT/TW về kiện toàn tổ chức bộ máy các cấp. Thực hiện Chỉ thị trên, tháng 9/1959, Tỉnh ủy quyết định đổi tên Liên chi Dân chính đảng thành Đảng bộ Dân chính đảng, tách Liên chi Kinh tế - Tài chính thành lập 2 đảng bộ: Đảng bộ Thương nghiệp và Đảng bộ Công nghiệp.
Thực hiện quyết định của Tỉnh ủy, ngày 30/9/1959, Đảng bộ Dân chính đảng đã tổ chức Đại hội đại biểu để công bố quyết định đổi tên và bầu Ban Chấp hành mới. Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng gồm 9 đồng chí: Đ/c Lưu Thành Nhân, Hà Văn Rô (tức Nguyễn Đông), Trần Văn Giao, Lê Duy Hưng, Nguyễn Văn Kinh, Nguyễn Văn Thực, Lê Thị Ngân, Nguyễn Văn Minh, Trần Cát. Ban Chấp hành đã bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ: Đồng chí Lưu Thành Nhân làm Bí thư, đồng chí Hà Văn Rô làm Phó Bí thư, đồng chí Trần Văn Giao là Ủy viên Ban Thường vụ. Toàn Đảng bộ có 25 chi bộ trực thuộc, 4 cơ ủy, 1 hiệu ủy, với tổng số 755 đảng viên.
Ngày 10/10/1959, Đảng bộ Công nghiệp tổ chức Đại hội đại biểu. Ngày 15/10/1959 Đảng bộ Thương nghiệp cũng tổ chức Đại hội đại biểu.
Từ Liên chi chuyển thành Đảng bộ là bước phát triển mới, đồng thời cũng là những thử nghiệm trong việc lãnh đạo, tổ chức quản lý các cơ sở đảng ở các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trên bước đường xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1961, với tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ IV, nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh được xác định: Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm hậu thuẫn cho cuộc cách mạng ở miền Nam.
Để phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới, tháng 10/1961, Tỉnh ủy quyết định hợp nhất 3 Đảng bộ (Dân Chính Đảng, Công nghiệp, Thương nghiệp) thành một Đảng bộ lấy tên là Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời gồm 10 đồng chí. Đồng chí Văn Chương được cử giữ chức Bí thư, đồng chí Hà Văn Rô (Đông) được cử giữ chức Phó Bí thư. Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lâm thời có trách nhiệm lãnh đạo phong trào quần chúng, công tác xây dựng Đảng và chuẩn bị mọi mặt để tiến hành Đại hội; bầu Ban Chấp hành mới. Sau khi hợp nhất, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có 14 cơ ủy, hiệu ủy và Đảng ủy cơ sở (gồm 63 chi bộ) và 31 chi bộ cơ sở trực thuộc với tổng số 1.377 đảng viên và 2.869 quần chúng.
Năm 1962, Tỉnh ủy quyết định Chi bộ Trường Sư phạm cấp II về sinh hoạt tại Đảng bộ Các cơ quan tỉnh. Do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, 2 năm (1962-1963), số cán bộ nhân viên các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể của Tỉnh ủy, của Ủy ban hành chính tỉnh ngày một đông, do đó số lượng đảng viên, chi bộ, đảng bộ cơ sở cũng tăng lên. Đến cuối năm 1963, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có 5.911 cán bộ công nhân viên, trong đó có 2.074 đảng viên và 3.837 quần chúng. 17 cơ, hiệu ủy, Đảng ủy và 32 chi bộ trực thuộc (nếu tính cả các chi bộ trong Đảng bộ có 119 chi bộ).
Là Đảng bộ có đặc điểm khác với Đảng bộ cấp huyện, thị xã: Không có chức năng lãnh đạo toàn diện, tính chất, mức độ, nhiệm vụ cụ thể thay đổi theo từng thời kỳ, hệ thống tổ chức và số lượng cán bộ, đảng viên thường xuyên tăng giảm, cấp ủy viên từ chi bộ đến Đảng bộ đều kiêm nhiệm; trong khi đó phần lớn các đồng chí tham gia Ban Chấp hành là trưởng hoặc phó các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể. Vì vậy, việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ và duy trì các chế độ sinh hoạt của Ban Chấp hành và các chi, đảng bộ theo định kỳ gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh cũng có những thuận lợi rất cơ bản, đó là: Nhiều đồng chí đảng viên trong Đảng bộ giữ các chức vụ lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh...Đa số đảng viên trong Đảng bộ được rèn luyện và thử thách trong kháng chiến chống Pháp, thường xuyên được bồi dưỡng văn hoá, lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, có lập trường, quan điểm vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt và có tinh thần trách nhiệm cao.
Từ những thuận lợi cơ bản đó, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh với chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo công tác xây dựng Đảng; lãnh đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; lãnh đạo công tác chuyên môn và lãnh đạo các đoàn thể quẩn chúng, mặc dù ở mỗi giai đoạn lịch sử có yêu cầu nhiệm vụ khác nhau và tên gọi khác nhau, song dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, Đảng bộ đều hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thời kỳ 1952 - 1954 là những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, yêu cầu nhiệm vụ của Đảng bộ (các liên chi A, B, C) lúc này phải lãnh đạo tốt công tác xây dựng Đảng và công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Mặc dù thời gian này do yêu cầu của cuộc kháng chiến, cán bộ, đảng viên ở các liên chi luôn luôn có sự biến động, sự thiếu vắng các đồng chí lãnh đạo các cơ quan, đoàn thể và lãnh đạo các liên chi thường xuyên xảy ra1. Nhưng trước yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi, các Liên chi đã làm tốt công tác xây dựng Đảng, công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Vì vậy đã có nhiều cán bộ, đảng viên không sợ gian khổ, hy sinh, tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Cuối năm 1954 đầu năm 1955, trước thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Liên chi Dân chính đảng thực sự là nòng cốt lãnh đạo đảng viên thực hiện các nhiệm vụ khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục kinh tế2...
Từ giữa năm 1955 đến nửa cuối năm 1956, do ảnh hưởng của cuộc phát động giảm tô, cải cách ruộng đất, hoạt động của Liên chi Dân chính đảng và hoạt động của đảng viên rời rạc, không nền nếp. Có chi bộ 2 tháng không họp hoặc họp không đầy đủ, ít tác dụng...Từ tháng 9/1956, thực hiện chủ trương sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Liên chi Dân chính đảng được củng cố và đi vào hoạt động. Công tác xây dựng Đảng đi vào nề nếp, ý thức sinh hoạt đảng của mỗi đảng viên được nâng cao, tinh thần đấu tranh phê bình, tự phê bình, đoàn kết nội bộ đã có tiến bộ rõ rệt. Các chi bộ: Giao thông, Bưu điện, Y tế, Trường Đảng, Thương binh... trước đó cấp ủy có biểu hiện hữu khuynh, nội bộ mâu thuẫn, bè phái, nay trong hội họp đã kiên quyết, thẳng thắn, trung thực đấu tranh, phê bình. Những mâu thuẫn, hiểu lầm giữa đảng viên với nhau và những thắc mắc về sai lầm, oan sai trong giảm tô, cải cách ruộng đất của một số cán bộ, đảng viên và quần chúng đã được các liên chi từng bước giải quyết.
Trong công tác xây dựng Đảng, Liên chi Dân chính đảng rất coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên thông qua việc lãnh đạo các chi bộ tổ chức học tập những chủ trương, chính sách lớn của Đảng; học tập các Nghị quyết 10, 11, 12 về quan điểm lao động; Chỉ thị phát triển đảng, ngoài ra còn phối hợp với Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy tổ chức nói chuyện thời sự, chính sách, tổ chức học tập văn hoá cho cán bộ, đảng viên, quần chúng trong Đảng bộ.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 1/1959, Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã họp và đề ra chủ trương: "Lãnh đạo nhân dân tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong đó cải tạo và phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế địa phương".
Thực hiện chủ trương của Đảng, Tỉnh ủy đã tăng cường bổ sung cán bộ, đảng viên, cấp ủy viên cho các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh. Vì vậy thời gian này nhiều cán bộ, đảng viên từ các cơ quan của huyện được điều động lên các ban, ngành của tỉnh. Để ổn định và đi vào hoạt động, Liên chi Dân chính đảng đã khẩn trương tập trung vào việc sắp xếp, củng cố tổ chức các chi bộ cơ sở ở các ban, ngành, đoàn thể và chỉ đạo các chi bộ cơ sở tiến hành Đại hội, hoặc chỉ định Chi ủy đối với các chi bộ mới thành lập, quy định về nề nếp sinh hoạt chi bộ, tổ đảng, mối quan hệ công tác giữa các chi bộ với Ban Chấp hành Liên chi; giữa Chi ủy với lãnh đạo cơ quan, xác định trách nhiệm của Chi bộ trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị do cơ quan, đơn vị đề ra; chỉ đạo các chi bộ củng cố xây dựng các tổ chức quần chúng: Đoàn thanh niên lao động, tổ chức Công đoàn ở các cơ quan hoặc liên cơ quan, tổ chức học tập, nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh. Đặc biệt là các đợt học tập Nghị quyết của Đảng về cải tạo các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, về cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, sự ủng hộ của nhân dân miền Bắc...Cùng với việc học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, từ cuối năm 1959, Liên chi Dân chính đảng đã phối hợp với Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy tổ chức học tập lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên theo nội dung, chương trình quy định của Trung ương nhằm bồi dưỡng về nhận thức lý luận cho cán bộ, giúp đảng viên nhận rõ quy luật phát triển của lịch sử, nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ của phong trào cộng sản quốc tế là đoàn kết phong trào công nhân, các lực lượng dân tộc, dân chủ để đấu tranh ngăn chặn âm mưu chạy đua vũ trang, mà đứng đầu là đế quốc Mỹ.
Từ năm 1955 - 1959, ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại hiệp định Giơnevơ, tăng cường khủng bố, trả thù những người theo kháng chiến bằng luật 10/59 hết sức dã man, tàn bạo. Ở miền Bắc, sau khi thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, đối với nông nghiệp, là cuộc đấu tranh giữa hai con đường: Xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa diễn ra gay gắt và do ảnh hưởng của nhóm "Nhân văn - Giai phẩm" (1956-1957) đã làm một số cán bộ, đảng viên ở các ban, ngành, đoàn thể có những nhận thức sai lệch, có tâm lý hoài nghi vào vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất là những cơ quan làm công tác văn hoá, văn nghệ, những đơn vị có công chức "lưu dung" như Y tế, Giáo dục... Trước tình hình trên, được sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Liên chi Dân chính đảng đã chỉ đạo các chi bộ nắm chắc tình hình, tăng cường công tác tư tưởng với nhiều hình thức khác nhau: Nói chuyện thời sự trong nước, thế giới, nghiên cứu, học tập các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy, đẩy mạnh công tác phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt chi bộ, coi đây là biện pháp quan trọng, vũ khí sắc bén để khắc phục, đẩy lùi những xu hướng nhận thức tư tưởng lệch lạc, xây dựng cho cán bộ, đảng viên có lập trường kiên định, có quan điểm rõ ràng, vững vàng về vai trò sứ mệnh lịch sử của Đảng. Trên cơ sở đó, các liên chi động viên cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của bản thân, gia đình trong việc chấp hành và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đang triển khai trên địa bàn tỉnh. Nhờ làm tốt công tác chính trị tư tưởng, Liên chi Dân chính đảng đã giải quyết dứt điểm việc mất đoàn kết, kèn cựa, không phục nhau về chuyên môn. Đặc biệt đã khắc phục được tình trạng nhận thức lệch lạc, biểu hiện thiếu lành mạnh về tư tưởng của một số cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, đơn vị.
Đi đôi với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, Liên chi Dân chính đảng còn chỉ đạo các chi bộ cơ sở tổ chức cho cán bộ, đảng viên tham gia một số nhiệm vụ theo kế hoạch chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh: Tham gia lao động xã hội chủ nghĩa trên các công trường thủy lợi, giúp nông dân thu hoạch, tham gia phong trào thể dục buổi sáng, rèn luyện thân thể để lao động và bảo vệ Tổ quốc; tham gia các cuộc mít tinh, tuần hành, lấy chữ ký phản đối Mỹ - Diệm khủng bố đồng bào miền Nam gây ra những tội ác dã man như tra tấn chị Trần Thị Lý, giết hại ông Hoàng Lệ Kha, đầu độc những người bị giam cầm ở nhà tù Phú Lợi...
Trên lĩnh vực công tác tổ chức, cán bộ: Liên chi Dân chính đảng cũng đã tham gia ý kiến với Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức dân chính tỉnh về việc bố trí sắp xếp cán bộ, đề bạt cán bộ ở các ban, ngành, đoàn thể, từng bước ổn định công tác cán bộ, công tác chuyên môn ở các ban, ngành, đoàn thể của Đảng, chính quyền...
Từ cuối năm 1954 đến tháng 10/1959, kế thừa, phát triển những kinh nghiệm và kết quả hoạt động của các Liên chi A, B, C, D và Đảng ủy Quân chính1, Liên chi Dân chính đảng đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức chỉ đạo các chi bộ lãnh đạo đảng viên, quần chúng khắc phục khó khăn gian khổ để hoàn thành công việc được giao. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết hậu quả sau chiến tranh và khôi phục kinh tế, đấu tranh thống nhất nước nhà, trong việc giúp Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đã khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Liên chi Dân chính đảng.
Từ tháng 9/1959, Liên chi Dân chính đảng đổi thành Đảng bộ Dân chính đảng. Đảng ủy Dân chính đảng đã lãnh đạo các chi, đảng bộ cơ sở xây dựng chương trình hành động cụ thể về công tác xây dựng Đảng, đã tiến hành mở lớp bồi dưỡng và tổ chức kết nạp đảng viên "lớp 6 - 1"1 chấm dứt thời kỳ tạm ngừng phát triển đảng từ giữa năm 1950; đưa việc phát triển đảng viên trở thành công tác thường xuyên theo chỉ đạo của Trung ương. Kết quả trong đợt phát triển đảng này, các chi, đảng bộ ở các ban, ngành, đoàn thể tỉnh đã bồi dưỡng kết nạp được nhiều quần chúng ưu tú vào Đảng, tăng nguồn sinh lực cho mỗi đơn vị, hăng hái hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, kế hoạch chỉ đạo của Tỉnh ủy về tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III; trong những tháng cuối năm 1959, nửa đầu năm 1960, Đảng ủy Dân chính đảng đã tập trung chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở tiến hành đại hội và tổ chức Đại hội Đảng bộ Liên chi.
Một trong những nội dung quan trọng của đại hội các chi, đảng bộ cơ sở và Đại hội Đảng bộ Liên chi là thảo luận các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV. Thông qua việc thảo luận các văn kiện, cán bộ, đảng viên ở mỗi chi, đảng bộ cơ sở được quán triệt đường lối của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước; ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần đấu tranh vì sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo của mỗi cán bộ, đảng viên được nâng lên. Đại hội Chi bộ và Đại hội Đảng bộ đã bầu ra Ban Chấp hành Chi, Đảng bộ. Riêng Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV.
Việc thành lập các đảng bộ, việc tiếp tục phát triển đảng viên mới và việc tiến hành Đại hội Chi, Đảng bộ, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã tạo ra niềm phấn khởi tin tưởng ở mỗi cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ.
Thời gian này, Đảng ủy Dân chính đảng đã có ủy viên chuyên trách làm nhiệm vụ Thường trực và cán bộ chuyên trách Văn phòng Đảng ủy nên điều kiện sinh hoạt của Đảng ủy có thuận lợi hơn, nhưng về chức năng, nhiệm vụ chưa rõ ràng. Do đó, việc chỉ đạo các chi bộ lãnh đạo công tác chuyên môn còn gặp khó khăn. Mặt khác số đông đảng viên ở các chi, đảng bộ cơ sở đều xuất thân từ nông dân lao động, trình độ văn hoá thấp, trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa được đào tạo nên ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị.
Để khắc phục tình trạng cơ sở đảng còn mỏng và yếu, trong thời gian này Đảng ủy Dân chính đảng đã chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở mở các hội nghị chuyên đề về giáo dục, bồi dưỡng quần chúng tích cực để phát triển đảng viên mới, nhất là đối với những đơn vị có số lượng đảng viên còn ít, hoặc chưa có đảng viên. Việc bồi dưỡng đối tượng để phát triển đảng, Đảng ủy đã chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở chú ý bồi dưỡng những đối tượng làm công tác chuyên môn, khoa học kỹ thuật, giới trí thức...Kết quả công tác bồi dưỡng quần chúng phát triển đảng viên mới ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là bồi dưỡng, phát triển đảng trong giới trí thức, xuất thân từ tầng lớp trên đã tạo được không khí hào hứng, tin tưởng phấn đấu của quần chúng.
Đi đôi với việc bồi dưỡng phát triển đảng, Đảng ủy đều có nghị quyết, công văn hướng dẫn về đẩy mạnh học tập, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ trong cán bộ, đảng viên; quy định việc học tập bổ túc văn hoá thành nhiệm vụ của mỗi đảng viên, đề ra mục tiêu phấn đấu trong từng thời gian; từng bước xây dựng đội ngũ đảng viên trong các chi bộ trở thành những cán bộ vừa hồng, vừa chuyên. Vì vậy, phong trào học tập bổ túc văn hoá trong cán bộ, đảng viên ở các chi, đảng bộ cơ sở hết sức sôi nổi và đạt kết quả tốt. Nhiều cán bộ, đảng viên ở ngành giáo dục, ngoài nhiệm vụ chính còn hăng hái tham gia công tác dạy bổ túc văn hoá. Nhiều cán bộ, đảng viên của các chi, đảng bộ được chọn đi học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ khoa học kỹ thuật do tỉnh hoặc Trung ương tổ chức. Nhìn chung, cán bộ đảng viên được đi học văn hoá, đi học chuyên môn nghiệp vụ và học lý luận đã khắc phục khó khăn phấn đấu học tập đạt kết quả tốt. Cùng với việc chọn cử người đi học tập trung do tỉnh và Trung ương triệu tập, Đảng ủy còn phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn ngày, các buổi nói chuyện chuyên đề về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và khoa học - kỹ thuật.
Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã xác định rõ 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, hoà bình, dân chủ và thống nhất. Đại hội cũng xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đề ra kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, tháng 3/19611, Đảng bộ tỉnh Hải Dương tổ chức Đại hội lần thứ IV (vòng 2). Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung về phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm và nhiệm vụ của năm 1961.
Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh, các đảng bộ huyện, thị xã và các đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy bước vào thực hiện lớp chỉnh huấn mùa xuân năm 1961. Đảng bộ Các cơ quan tỉnh[2] đã tổ chức, thực hiện một cách nghiêm túc. Trước hết, phân loại cán bộ, đảng viên để cử đi dự các lớp do Trung ương và Tỉnh ủy triệu tập; đồng thời tổ chức một số lớp tại chỗ, mời Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy đến giới thiệu. Qua đợt học tập này, một lần nữa, cán bộ, đảng viên lại được quán triệt sâu sắc các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III về hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ, kế hoạch của địa phương do Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. Qua thảo luận, kiểm điểm, liên hệ, mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức rõ những nhược điểm, thiếu sót của mình, từ đó có phương hướng tu dưỡng phấn đấu để không ngừng vươn lên. Đồng thời qua đợt chỉnh huấn này, việc nhìn nhận và đánh giá cán bộ được đúng hơn. Vì vậy, sau khi chỉnh huấn, tinh thần đoàn kết nội bộ kể cả trong và ngoài Đảng được tăng cường, mỗi cán bộ, đảng viên tích cực, sẵn sàng đảm đương nhiệm vụ cấp trên giao. Có được kết quả trên là do sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã sâu sát kiểm tra đôn đốc, có kế hoạch cho từng chi ủy, từng cơ quan, kết hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo tư tưởng và tổ chức, cán bộ.
Tiếp theo đợt chỉnh huấn mùa xuân, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh tiến hành đợt học tập Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất; học tập Nghị quyết Trung ương 7 về nhiệm vụ phát triển công nghiệp. Trong các đợt học tập, Đảng ủy luôn được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sự phối hợp và giúp đỡ của Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy. Đi đôi với việc học tập lý luận, văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, Đảng ủy thường xuyên tổ chức nói chuyện thời sự, phát động các phong trào thi đua. Chỉ tính 6 tháng đầu năm 1961, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã tổ chức được 12 cuộc nói chuyện cho cán bộ đảng viên, công nhân viên các cơ quan về tình hình cách mạng miền Nam, Nam Triều Tiên, Nhật Bản... Mỗi cuộc nói chuyện có từ 400 đến 1.000 người tới dự. Đảng ủy còn tổ chức phát động phong trào thi đua hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1961 ở các chi, đảng bộ cơ sở. Qua đó đã tạo được không khí hào hứng phấn khởi, tăng thêm lòng tin tưởng của đảng viên và quần chúng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.
Qua các phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều cán bộ, đảng viên đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua và lao động tiên tiến. Chỉ tính riêng 3 cơ sở: Máy sứ, Cơ khí, Ty công nghiệp đã có 21 chiến sỹ thi đua, 516 lao động tiên tiến. Đáng chú ý, trong hoạt động thực tiễn đảng viên thực sự đã trở thành những hạt nhân của phong trào.
Do làm tốt công tác thi đua nên các chỉ tiêu kế hoạch của các đơn vị thuộc Đảng ủy đều vượt. Chỉ tính riêng Đảng bộ Nhà máy sứ Hải Dương vượt trước thời hạn 31 ngày, cơ sở Quốc doanh vận tải ô tô vượt trước thời hạn 1 tháng 14 ngày và vượt kế hoạch 3 năm 138 ngày, Xưởng cơ khí vượt 29 ngày, Vận tải thủy vượt 15 ngày, xí nghiệp Bưu điện vượt trước thời hạn 34 ngày.
Mặc dù nhiệm vụ chính của cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ là công tác chuyên môn, công tác đảng, nhưng hằng năm, hằng quý, Đảng ủy rất coi trọng việc lãnh đạo đảng viên, quần chúng tham gia lao động xã hội chủ nghĩa như: Đắp đê, đào ngòi, xây dựng vườn hoa..., cử người xuống giúp đỡ các hợp tác xã chống hạn, sản xuất, thu hoạch, ổn định tư tưởng...Năm 1961, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh cử người xuống cơ sở giúp các hợp tác xã được 2.150 ngày công, trong đó tham gia thu hoạch 91 công, lao động sản xuất 1.828 công, bắt sâu cắn lúa 231 công. Cơ ủy Văn hoá đã tổ chức 2 đội điện ảnh đi chiếu phim phục vụ nhân dân không thu vé. Đảng ủy còn có chủ trương và đề nghị với thủ trưởng cơ quan giải quyết cho một số cán bộ, đảng viên nghỉ phép năm về giúp đỡ gia đình và địa phương.
Đi đôi với việc giúp đỡ các hợp tác xã nông nghiệp và lao động xã hội chủ nghĩa, Đảng ủy còn rất coi trọng việc tăng gia sản xuất, gửi tiền tiết kiệm. Hàng năm, Đảng ủy đều chỉ đạo cho các chi, đảng bộ, cán bộ, đảng viên, quần chúng có kế hoạch trồng rau, nuôi lợn, gửi tiền tiết kiệm, mua phiếu xây dựng Nhà máy dệt 8/3 (do phụ nữ đảm nhiệm). Chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 1961, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã động viên cán bộ, đảng viên, quần chúng gửi được 36.642 đồng (bình quân mỗi người 25,13 đồng). Những chi bộ lãnh đạo tương đối khá như: Chi bộ Bệnh viện Hải Dương, Chi bộ Trường phổ thông lao động, Chi bộ Thủy lợi...Riêng cuộc vận động gửi tiền tiết kiệm xây dựng Nhà máy dệt 8/3 do phụ nữ phát động được 1.302 đồng.
Chấp hành Chỉ thị của Trung ương về việc không cấp báo cho cá nhân, Đảng ủy đã lãnh đạo các chi bộ vận động đảng viên quần chúng tích cực mua báo, các chi bộ đã nghiêm chỉnh thực hiện mua báo với số lượng nhiều hơn những năm trước. Đáng chú ý Chi bộ Kế hoạch đạt bình quân mỗi người gần 2 tờ báo các loại, Chi bộ Thanh - Kiểm tra mỗi đảng viên một số báo...
Sau khi Đảng bộ Các cơ quan tỉnh hợp nhất, Đảng ủy rất coi trọng công tác xây dựng Đảng. Từ cuối năm 1961 đến cuối năm 1963, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh tập trung vào việc củng cố, xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tạo nên bước chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng, phẩm chất, tinh thần và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên để góp phần phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương. Công tác chính trị tư tưởng, Đảng ủy tập trung quán triệt sâu sắc đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, nâng cao ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần cách mạng tiến công, dám nghĩ, dám làm, không ngừng tu dưỡng phấn đấu, học tập để trở thành những cán bộ, đảng viên vừa hồng, vừa chuyên. Đồng thời củng cố và nâng cao tư tưởng vô sản, chống lại chủ nghĩa cơ hội, hữu khuynh, chủ nghĩa xét lại và mọi biểu hiện khác của tư tưởng không vô sản, tăng cường ý thức tổ chức kỷ luật. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được các chi, đảng bộ cơ sở phổ biến học tập sâu rộng tới mọi cán bộ, đảng viên như: Nghị quyết của Bộ Chính trị về "Cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật"1 trong các hợp tác xã nông nghiệp; Nghị quyết của Bộ Chính trị về "Nâng cao ý thức, trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính" trong công nghiệp và khu vực kinh tế quốc doanh2. Các đợt học tập này đã động viên mạnh mẽ đông đảo cán bộ, đảng viên hăng hái đi đầu và làm nòng cốt trong các phong trào thi đua, học tập, công tác, phấn đấu xây dựng các tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa trong công nhân viên chức. Qua đợt học tập này cán bộ, đảng viên của Đảng bộ nâng cao nhận thức về 4 quan điểm, đặc biệt là những quan điểm về làm chủ, về tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và quan điểm phục vụ sản xuất nông nghiệp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tác phong công tác và tăng cường đoàn kết nội bộ... Những cán bộ, đảng viên được huy động đi tham gia cuộc vận động "Cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật", "Ba xây, ba chống" đã bám hợp tác xã, bám xí nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh trong thời gian dài, đóng góp tích cực vào việc thực hiện chủ trương quan trọng này của Đảng, tạo nên bước chuyển biến mới trong sản xuất nông nghiệp, công thương nghiệp, và những lĩnh vực khác trong khu vực kinh tế quốc doanh.
Hải Dương là một tỉnh đồng bằng, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Với đặc điểm đó, quán triệt Nghị quyết Trung ương 5, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã chỉ đạo các chi bộ, đảng bộ cơ sở thường xuyên giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên tuỳ theo nhiệm vụ cụ thể của mình hướng về cơ sở, phục vụ phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn. Hằng năm đã có hàng chục cán bộ, đảng viên tham gia các cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật ở các hợp tác xã. Các đảng viên là cán bộ kỹ thuật ngành nông nghiệp bám đồng ruộng, nghiên cứu, hướng dẫn nông dân (xã viên) áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Các ngành Công thương nghiệp, Tài chính, Ngân hàng, Bưu điện, Giao thông vận tải, Y tế, Văn hoá, Giáo dục... cũng hướng về nông nghiệp, nông thôn phục vụ theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong khi miền Bắc đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội thì ở miền Nam, đế quốc Mỹ ráo riết tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, đồng thời ra sức thực hiện âm mưu phá hoại miền Bắc bằng nhiều thủ đoạn như: Tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, tung biệt kích, gián điệp để điều tra nắm tình hình, phá hoại...
Trước tình hình đó, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết 12 (T12/1962) của Bộ Chính trị, tăng cường giáo dục ý thức cảnh giác, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...trách nhiệm to lớn và ý nghĩa quyết định thắng lợi của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam. Khẩu hiệu: "Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt", "Ngày thứ 7 vì miền Nam ruột thịt"... đã trở thành quyết tâm, hành động của mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ. Toàn Đảng bộ đã dấy lên phong trào thi đua với miền Nam, với tỉnh Phú Yên kết nghĩa1. Một số cán bộ, đảng viên của Đảng bộ là người miền Nam ra tập kết đã tình nguyện trở lại quê hương chiến đấu.
Tháng 4/1963, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Dương chủ trương tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng Đảng trên các mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức, nhằm xây dựng một Đảng bộ đoàn kết nhất trí, trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà...
Thực hiện chủ trương trên, thời gian này Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã đề ra giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo, quản lý của tổ chức cơ sở đảng, coi trọng chỉ đạo đưa sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt tổ đảng vào nền nếp, giữ đúng định kỳ sinh hoạt thường xuyên hằng tháng, chú ý cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đặc biệt là nâng cao tính chiến đấu, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở hưởng ứng cuộc vận động xây dựng "Chi bộ 4 tốt"2 do Tỉnh ủy phát động; tăng cường công tác kiểm tra Đảng, kết hợp công tác kiểm tra với việc thực hiện cuộc vận động "Ba xây, ba chống" mang lại hiệu quả tích cực. Mọi cán bộ, đảng viên đã nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường công tác quản lý kinh tế, tài chính, ngăn chặn những việc tiêu cực nảy sinh trong cán bộ, đảng viên ở các đơn vị sự nghiệp, sản xuất kinh doanh có liên quan đến tiền và hàng. Một số cán bộ, đảng viên có sai phạm đã được kiểm điểm phê bình, một số trường hợp bị thi hành kỷ luật1. Đáng chú ý trong công tác kiểm tra, Đảng ủy đã chú ý giải quyết tình hình mất đoàn kết nội bộ ở một số cơ sở. Những cán bộ, đảng viên gây mất đoàn kết nội bộ do kèn cựa về địa vị đã bị xử lý kỷ luật hoặc điều chuyển công tác khác.
Do thực hiện tốt công tác kiểm tra của Đảng, cuộc vận động xây dựng “Chi bộ 4 tốt” đã tạo ra sự chuyển biến mới ở mỗi cơ quan, đơn vị, làm cho cán bộ, đảng viên phấn khởi, tin tưởng hăng say công tác, phấn đấu trở thành đảng viên 4 tốt.
Đi đôi với việc quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng, Đảng ủy rất coi trọng công tác học tập lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Chỉ tính riêng 6 tháng cuối năm 1961, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã tổ chức cho 456 cán bộ, đảng viên học sơ cấp lý luận chính trị và 802 cán bộ, đảng viên, quần chúng ở các cơ sở học tập chính trị gồm 7 bài theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Đảng ủy Các cơ quan tỉnh còn chú ý đến việc bồi dưỡng, kết nạp đảng, nên số lượng đảng viên hằng năm tăng đáng kể: Năm 1961 kết nạp 68 đảng viên, năm 1962 kết nạp 80 đảng viên, năm 1963 kết nạp 105 đảng viên.
Cùng với công tác xây dựng Đảng, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh thường xuyên quan tâm lãnh đạo các đoàn thể quần chúng. Đoàn thanh niên lao động là một tổ chức gần gũi Đảng nhất, là nòng cốt thúc đẩy mọi phong trào quần chúng ở cơ quan, đơn vị. Sau khi hợp nhất, các cơ quan, đơn vị xung quanh tỉnh có 65 chi đoàn với tổng số 2.770 thanh niên, trong đó có 1.787 là đoàn viên. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, phong trào thanh niên có nhiều chuyển biến tốt. Các chi đoàn và mỗi đoàn viên thanh niên đều phấn khởi thi đua, nêu cao tinh thần gương mẫu để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra của cơ quan, đơn vị. Chỉ tính riêng năm 1963, trong 6 tháng đầu năm, các chi đoàn đã có trên 50% đoàn viên, thanh niên là lao động tiên tiến.
Theo quy định, mỗi cán bộ, công nhân viên chức một năm phải sản xuất lương thực, thực phẩm tự túc 1 tháng để giảm bớt một phần khó khăn cho Nhà nước. Thực hiện quy định trên, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã phát động phong trào tăng gia, tự túc trong toàn Đảng bộ; đề ra kế hoạch cụ thể và chỉ đạo chặt chẽ các chi, đảng bộ cơ sở triển khai tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc. Một số chi bộ đã lãnh đạo đơn vị cử cán bộ xuống các xã liên hệ xin đất. Có đơn vị đã tới những xã cách nơi làm việc 40 cây số để tìm đất tăng gia sản xuất. Do có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng và tinh thần tích cực của mỗi cán bộ, đảng viên, công nhân viên, kế hoạch tăng gia sản xuất đã đạt được nhiều kết quả, góp phần đáng kể trong việc giải quyết khó khăn lương thực, thực phẩm của Nhà nước. Chỉ tính riêng năm 1963, theo thống kê của 30 đơn vị thuộc Đảng bộ đã thu hoạch được 31.611 kg thóc, 16.411 kg ngô, khoai, 9.097 kg thịt lợn hơi, 4.475 kg cá và 24.094 kg rau các loại. Điển hình là các đơn vị: Vật tư, Trường Đảng, Mặt trận Tổ quốc, Văn phòng Tỉnh ủy, Xí nghiệp cá, Công ty Phục vụ ăn uống, Ty Lương thực, Ty Thương Nghiệp...Đây là những đơn vị thực hiện tốt cả việc lãnh đạo và tổ chức tăng gia sản xuất đạt năng suất cao. Các đơn vị như: Ngân hàng kiến thiết, Công đoàn, Công ty Phát hành sách, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Đảng ủy Ủy ban hành chính tỉnh, Cục Thống kê, Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh, Ty Kế hoạch, Ty Giáo dục, Ty Nông nghiệp, Ty Tài chính, Xí nghiệp bánh kẹo...đã đảm bảo các chỉ tiêu kế hoạch. Những thắng lợi trong tỉnh cũng như thành tích xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đặc biệt là tình hình chuyển biến của cách mạng miền Nam đã tác động, cổ vũ tinh thần tư tưởng cán bộ, đảng viên, tạo ra một yếu tố tinh thần phấn khởi, lạc quan với thành quả cách mạng chung của cả nước.
Có được những thành tích trên là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy đảng và tinh thần cố gắng của mỗi cán bộ, đảng viên. Những cố gắng này thực sự tạo ra những thuận lợi mới cho Đảng bộ Các cơ quan tỉnh hoàn thành nhiệm vụ của mình vào những năm tiếp theo.
Chương II
ĐẢNG BỘ DÂN CHÍNH ĐẢNG HẢI DƯƠNG TÁI LẬP VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (T5/1964 -1968)
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ V (T4/1963) chủ trương tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng Đảng trên các mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đại hội nhấn mạnh “Lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta phải ra sức xây dựng Đảng bộ về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức, tác phong, xây dựng một Đảng bộ đoàn kết nhất trí, trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, với sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, quyết tâm làm công nghiệp, nhiệt tình với nông thôn, có tác phong chiến đấu khẩn trương, biết xây dựng kinh tế và văn hoá, quốc phòng, biết tổ chức vận động quần chúng trong thời kỳ mới”.
Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V, căn cứ vào tình hình thực tế địa phương và do yêu cầu công tác, cũng như tình hình mới ngày một phát triển đòi hỏi công tác xây dựng Đảng phải được chặt chẽ và sát hợp hơn, nhằm phát huy tác dụng, chức năng lãnh đạo của Đảng đối với các chi bộ cơ quan hành chính sự nghiệp cũng như các chi bộ có tính chất phục vụ và lãnh đạo sản xuất. Tháng 5/1964 Tỉnh ủy quyết định tách Đảng ủy Các cơ quan tỉnh ra thành 03 Đảng ủy: Đảng ủy Dân chính đảng, Đảng ủy Công nghiệp và Đảng ủy Ngân tài mậu; số đảng viên thuộc khối nào sẽ phân công về khối ấy. Riêng Đảng ủy Dân chính đảng được Tỉnh ủy đề bạt đồng chí Hà Văn Rô (tức Đông) nguyên Phó Bí thư Đảng ủy làm Bí thư và bổ sung thêm 02 đồng chí vào Ban Chấp hành. Một đồng chí làm Phó Bí thư và một đồng chí làm Thường trực Đảng ủy. Như vậy, Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng sau khi thành lập có 08 đồng chí, trong đó 02 đồng chí chuyên trách và 06 đồng chí không chuyên trách.
Sau khi thành lập, toàn Đảng bộ Dân chính đảng có 34 đảng bộ trực thuộc với tổng số đảng viên là 1.452 đồng chí, ngoài ra còn có 1.853 quần chúng là cán bộ công nhân viên chức dưới sự lãnh đạo và giáo dục chính trị tư tưởng trực tiếp của các chi bộ.
Căn cứ vào tính chất hoạt động của Đảng bộ Dân chính đảng, Tỉnh ủy phân cấp cho quản lý đảng viên về mặt chính trị và tư tưởng, không quản lý đảng viên về mặt tổ chức, các công việc ở cơ quan đều do thủ trưởng cơ quan quyết định và điều hành theo chế độ hành chính sự nghiệp. Tuy nhiên, do tính chất công tác không thuần tuý, đảng bộ cơ sở thì lãnh đạo chính trị, tư tưởng, chi bộ lại lãnh đạo việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, tức là lãnh đạo toàn diện, lãnh đạo sản xuất hoặc có ngành nghề khác nhau như: Khoa học kỹ thuật, trường học, bệnh viện, nông, lâm nghiệp, công trường,... cho nên việc giải quyết hoặc lãnh đạo tư tưởng cũng phải thực tế và cụ thể theo tính chất công việc thì mới đạt được yêu cầu và kết quả.
Nhằm thực hiện tốt phương hướng công tác xây dựng Đảng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã tập trung lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng và nghiên cứu công tác tổ chức để tiến hành kiện toàn, củng cố cơ sở đảng ở các đơn vị trực thuộc Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh. Đây là hai nội dung chính trong công tác chuyên môn và hết sức bức xúc của Đảng bộ. Sau khi được tách ra từ Đảng bộ Các cơ quan tỉnh, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhất là đặc điểm và tính chất của toàn Đảng bộ. Song trước yêu cầu và nhiệm vụ được Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao, cán bộ, đảng viên và công nhân viên chức của Đảng bộ đã tập trung cao độ để triển khai thực hiện và đã đạt nhiều kết quả trong công tác xây dựng Đảng.
Do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới ngày một phát triển, cũng như yêu cầu của công tác xây dựng Đảng cả về số lượng và chất lượng. Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục để phát triển đảng viên mới một cách thường xuyên, liên tục theo phương hướng của Tỉnh ủy. Đảng ủy đã hướng vào những quần chúng ưu tú có nhiều thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua, đạo đức tác phong, lập trường tư tưởng vững vàng được quần chúng tín nhiệm. Đặc biệt, Đảng ủy đã chú trọng vào đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất, tầng lớp trí thức mới, đoàn viên thanh niên lao động có nhiều biểu hiện tốt. Đảng ủy đã chủ động mở các lớp cảm tình đảng cho những quần chúng ưu tú tìm hiểu về Đảng để tạo nguồn cho công tác phát triển đảng.
Chỉ một năm sau ngày thành lập, toàn Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã kết nạp được 66 đảng viên mới, trong đó có 19 đảng viên là thanh niên lao động, 11 đảng viên là phụ nữ, 26 đảng viên là trung cấp kỹ thuật và 03 đảng viên là đại học nông nghiệp. Trong những năm 1964 – 1965, việc xét duyệt kết nạp đảng viên mới đã thực hiện đúng phương châm của Trung ương Đảng là tích cực và thận trọng. Vì vậy, sau khi được gia nhập đảng, các đồng chí đảng viên mới đã phát huy được tác dụng tích cực trong công tác, hoàn thành mọi nhiệm vụ, xứng đáng vai trò tiên phong gương mẫu cho quần chúng noi theo. Tuy nhiên, do đặc điểm của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh gồm nhiều cơ sở trực thuộc, cho nên việc xét duyệt, kết nạp và thẩm tra lý lịch cho công tác phát triển đảng viên mới chưa theo đúng kế hoạch do Đảng ủy đề ra.
Với nhận thức sâu sắc “Chi bộ cơ sở là pháo đài trực tiếp chiến đấu, là hạt nhân lãnh đạo mà đảng viên là nòng cốt thúc đẩy phong trào, đẩy mạnh mọi hoạt động tiến lên”; ngay sau khi Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh được tách ra từ Đảng bộ Các cơ quan tỉnh, Đảng ủy đã chỉ đạo phát động phong trào thi đua xây dựng “Chi bộ 4 tốt” theo tinh thần chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đảng ủy nêu những tiêu chuẩn cụ thể của từng loại chi bộ để các chi bộ căn cứ vào tiêu chuẩn cụ thể của chi bộ mình phát động thi đua đăng ký xây dựng đảng viên 4 tốt, tổ đảng 4 tốt, chi bộ 4 tốt. Sau phát động, phong trào thi đua phấn đấu giành danh hiệu 4 tốt được các tổ đảng, chi bộ thực hiện rất sôi nổi, tạo phong trào thi đua trong toàn Đảng bộ. Đến cuối năm 1964, qua kết quả đã bình bầu ở 16 tổ chức cơ sở đảng có 250 đảng viên 4 tốt, 65 đảng viên 3 tốt, 14 đảng viên 2 tốt và 01 đảng viên 1 tốt. Qua phát động phong trào thi đua xây dựng “Chi bộ 4 tốt” và việc sơ kết bình bầu cá nhân đảng viên 4 tốt, đã làm cho đảng viên trong Đảng bộ thấy rõ trách nhiệm của mình mà nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng, từ đó đẩy mạnh được công tác, hoàn thành nhiệm vụ và mọi hoạt động khác. Đặc biệt đã giải quyết được những mâu thuẫn nội bộ ở một số cơ quan; sinh hoạt, học tập, phê bình và tự phê bình được đẩy mạnh hơn; công tác lao động tự túc cũng được coi trọng và nâng cao hơn (nhiều cơ quan đảm bảo rau ăn không phải mua ở ngoài và hầu hết cơ quan đều chăn nuôi lợn).
Đi đôi với phong trào xây dựng “Chi bộ 4 tốt” là đợt học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III). Nội dung học tập chủ yếu là vận dụng phương hướng giáo dục tư tưởng cho cán bộ đảng viên luôn luôn củng cố và nâng cao tư tưởng vô sản; chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh; chủ nghĩa xét lại và mọi biểu hiện khác của tư tưởng tư sản; khắc phục tư tưởng tiểu tư sản; loại trừ những tư tưởng không vô sản; tăng cường ý thức tổ chức, kỷ luật, làm cho bản chất cách mạng của người đảng viên luôn trong sáng. Qua học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) đã làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ xác định, nhận thức đúng đắn, không mơ hồ đối với bọn xét lại.
Tháng 5/1964, toàn Đảng bộ tiến hành đợt học tập phần 2 Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) về tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam. Trên cơ sở thông suốt được sự quan trọng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cũng như xác định được nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ủy đã phát động một cao trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai; vì miền Nam ruột thịt; vì chủ nghĩa xã hội” theo lời huấn thị của Bác Hồ và Trung ương Đảng. Thông qua học tập đã làm cho cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ hiểu cụ thể về tình hình miền Nam, thông cảm sâu sắc với những khó khăn gian khổ của đồng bào miền Nam. Mặt khác, Đảng ủy còn tổ chức học tập chính trị tại chức cho cán bộ, đảng viên theo 4 trình độ và chương trình học tập. Chỉ tính 6 tháng cuối năm 1964, Đảng ủy đã mở được 01 lớp sơ cấp cho 87 học viên, 01 lớp cơ sở cho 271 học viên và 01 lớp cho 53 đảng viên đang học văn hoá kết hợp với học chính trị.
Sau gần 1 năm tách ra từ Đảng bộ Các cơ quan tỉnh, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã không ngừng đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Qua việc tiến hành xây dựng “Chi bộ 4 tốt” cũng như qua công tác giáo dục, học tập chính trị đã làm cho cán bộ, đảng viên phấn khởi và tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, luôn cảnh giác trước âm mưu leo thang phá hoại của kẻ thù. Cùng với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, Đảng ủy đã không ngừng đẩy mạnh công tác kiểm tra làm cho đội ngũ đảng viên trong sạch. Qua kiểm tra, những tổ chức và cá nhân đảng viên có sai phạm đều được xử lý kịp thời, sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng cao.
Đi đôi với công tác xây dựng Đảng, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh còn quan tâm lãnh đạo một số công tác khác như: Lãnh đạo Đoàn thanh niên lao động, lãnh đạo công tác Công đoàn và lãnh đạo việc phát động cán bộ đảng viên trong Đảng bộ lao động sản xuất. Về công tác lãnh đạo Đoàn thanh niên lao động: Đảng ủy đã chỉ đạo xúc tiến việc kiện toàn về mặt tổ chức. Toàn Khối Dân chính đảng tỉnh có 4 cơ sở đoàn: Đoàn Trường Y sĩ có 14 đoàn viên và 21 quần chúng thanh niên; Đoàn Trường Sư phạm cấp II có 400 đoàn viên và 120 thanh niên; Đoàn Trường Sư phạm cấp I có 146 đoàn viên và đoàn thanh niên các cơ quan thuộc Dân chính đảng tỉnh có 10 chi đoàn và liên chi đoàn với 435 đoàn viên, 115 thanh niên ngoài đoàn.
Sau khi ổn định về mặt tổ chức, Đảng ủy đã chỉ đạo các cơ sở đoàn đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong đoàn viên, thanh niên; tổ chức cho đoàn viên thanh niên học Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), học tập Nghị quyết 6 của Trung ương Đoàn và học tập các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy về tình hình và nhiệm vụ mới. Qua đó đã tạo được sự phấn khởi, tin tưởng, hoàn thành được trách nhiệm cơ quan giao.
Tổ chức Công đoàn thuộc Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh có 29 cơ sở, được Đảng ủy giao cho trách nhiệm là giáo dục đoàn viên nâng cao trình độ chính trị cũng như nghiệp vụ để đảm đương công tác và hoàn thành nhiệm vụ cơ quan. Công đoàn ngoài chức năng bảo vệ quyền lợi cho công nhân, viên chức cơ quan, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Công đoàn đã phát động phong trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” đã tạo được khí thế thi đua sôi nổi ở cơ quan, nhà trường. Tuy nhiên do nhận thức chưa đầy đủ, một số cơ sở còn có tư tưởng coi nhẹ tổ chức Công đoàn...
Do nhận thức rõ những khó khăn chung của Đảng, cũng như trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã lãnh đạo các cơ sở đảng trực thuộc tích cực phục vụ sản xuất nông nghiệp và trực tiếp tăng gia sản xuất. Chỉ tính năm 1964 toàn Đảng bộ đã cấy được 10 mẫu 2 sào 13 thước, thu hoạch được 19.722 cân thóc. Bình quân mỗi cơ quan cấy từ 2 đến 4 sào, riêng cơ quan Ủy ban hành chính tỉnh cấy được 7 sào 14 thước; Trường Sư phạm cấp II cấy được 3 mẫu 5 sào và Trường Sư phạm cấp I cấy được 1 mẫu 8 sào. Ngoài ra các cơ quan còn trồng khoai lang thu hoạch 10 tấn, rau 12.900 kg, nuôi được 85 con lợn, 4 con bò, 309 con gà và 2 bể lươn (Văn phòng Tỉnh ủy, Ủy ban Kế hoạch). Đảng ủy còn phát động cán bộ, đảng viên các cơ quan trong khối tham gia công tác làm thủy lợi. Trong năm 1964 đã tham gia 4.415 ngày công, đào đắp 6331 m3 đất. Các đơn vị tiêu biểu trong phong trào tham gia làm thủy lợi là: Trường Sư phạm Sơ cấp; Văn phòng Tỉnh ủy; Ban Tổ chức Tỉnh ủy; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; Tỉnh đoàn thanh niên, Tỉnh Hội Phụ nữ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh. Đảng ủy đặt kế hoạch cho các chi bộ và trực tiếp lãnh đạo, vận động cán bộ đảng viên khắc phục khó khăn gửi tiền tiết kiệm (bình quân mỗi cán bộ, đảng viên gửi 7 đồng 8 hào) các đơn vị đạt cao là: Trường Y sĩ 11 đồng; Thanh tra tỉnh, Ty Công an tỉnh 15 đồng ...
Như vậy, sau gần một năm hoạt động (từ T5/1964) dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã giành được nhiều thành tích trên lĩnh vực công tác xây dựng Đảng: Đã giáo dục về tinh thần yêu nước, ủng hộ cách mạng miền Nam, đi đôi với việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc...; giáo dục chính trị đi đôi với giáo dục về lao động sản xuất, như sản xuất tự túc lương thực, gặt giúp hợp tác xã, chống bão lụt và góp phần quan trọng vào phong trào làm thủy lợi của tỉnh. Đặc biệt đã giáo dục cho cán bộ, đảng viên chuyển biến tư tưởng mạnh mẽ về nhiệm vụ đối với nông nghiệp...Lãnh đạo phong trào thi đua trong nội bộ Đảng kết hợp chặt chẽ với các phong trào thi đua yêu nước khác, trong đó phong trào xây dựng “Chi bộ 4 tốt, đảng viên 4 tốt” là chủ yếu.
Sau khi dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ, ngày 05/8/1964 đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc nước ta. Sự kiện đó đã tác động sâu sắc đến tình hình cả nước nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. Trước tình hình mới, tháng 3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị lần thứ 11 xác định rõ nhiệm vụ của cả hai miền: “Miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn, nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam”. Nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc lúc này là: Kịp thời chuyển hướng chiến lược xây dựng kinh tế, xây dựng Đảng; kịp thời chuyển hướng về tổ chức và tư tưởng...cho phù hợp với tình hình mới.
Thực hiện đường lối chiến lược của Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh sau khi được thành lập đã tập trung vào công tác chuẩn bị Đại hội đại biểu của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lần thứ nhất. Thực hiện quy định của Điều lệ Đảng, được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sau một thời gian chuẩn bị, ngày 10 - 11/12/1965, Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Dương đã tiến hành Đại hội lần thứ nhất tại Hội trường trung tâm tỉnh; về dự Đại hội có gần 100 đại biểu đại diện cho gần 1.500 đảng viên của 8 đảng bộ cơ sở và 51 chi bộ. Đại hội đánh giá công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ kể từ khi tách ra từ Đảng bộ Các cơ quan tỉnh (T5/1964), trong đó nêu bật thành tích về công tác chính trị tư tưởng; tổ chức kết nạp đảng viên mới; xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở 4 tốt; đề cao kỷ luật, tăng cường giáo dục đảng viên và sản xuất tự túc... tất cả đều phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh trong điều kiện cả nước có chiến tranh.
Với khí thế thi đua sôi nổi thực hiện nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước của toàn Đảng, toàn dân; khẩu hiệu “Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chiến đấu thắng lợi”; thực hiện lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chủ tịch là quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; trên cơ sở thành tích đã đạt được và khuyết điểm tồn tại, Đại hội đã đề ra phương hướng công tác trong nhiệm kỳ tới là:
- Giáo dục và nâng cao hơn nữa tính giai cấp, tính tiên phong cho cán bộ, đảng viên, nêu cao tinh thần cách mạng phấn đấu vươn lên hàng đầu; trong bất cứ tình huống nào, bất kể khó khăn gian khổ nào phải thể hiện được tinh thần xả thân vì nước, quyết chiến thắng mọi kẻ thù; làm tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho; chống tư tưởng ngại khó ngại khổ, sợ hy sinh...
- Các cấp ủy đảng tăng cường lãnh đạo toàn diện phong trào công nhân viên chức, phong trào thanh niên, dân quân tự vệ, để các tổ chức này đủ năng lực giúp cấp ủy thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh khóa I gồm 9 đồng chí. Ngày 12/12/1965 tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí cấp ủy viên và bầu đồng chí Hà Văn Rô giữ chức Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Thực giữ chức Phó Bí thư.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã thực hiện theo đúng phương hướng là tăng cường tính giai cấp công nhân, tính tiên phong cách mạng cho toàn thể cán bộ, đảng viên, nhằm tiếp tục phát huy tinh thần quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, hăng hái lao động sản xuất; đồng thời trau dồi đạo đức cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư của giai cấp công nhân; bồi dưỡng lối sống giản dị, chống tư tưởng tham ô, hủ hoá, lãng phí quan liêu, địa vị cá nhân...nhằm cống hiến nhiều nhất cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Theo phương hướng đó, trong các năm (1965 -1967) Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên các mặt tổ chức, chính trị tư tưởng và phát triển đảng viên mới.
Về tổ chức: Do tình hình đặc điểm có những khó khăn, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc và điên cuồng bắn phá tỉnh ta, nhất là từ tháng 11/1965 đến đầu năm 1968, trong đó có chiến dịch “Sấm rền” hè năm 1967...Vì vậy, các cơ quan tỉnh ở thị xã Hải Dương phải tiếp tục và triệt để đi sơ tán về nông thôn, dựa vào cơ sở của nông dân để hoạt động. Cho đến cuối năm 1966 đầu năm 1967 toàn Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh có 41 đảng bộ trực thuộc, 72 chi bộ cơ sở với tổng số 1.627 đảng viên và 3.134 quần chúng. Các cơ quan đóng rải rác ở các huyện (Cẩm Giàng, Tứ Kỳ, Gia Lộc, Thanh Hà, Ninh Giang, Thanh Miện và Bình Giang). Do đó đã xuất hiện những khó khăn là từ hoạt động tập trung chuyển sang hoạt động phân tán; từ hoà bình chuyển sang chiến tranh. Đặc điểm này toàn Đảng bộ tỉnh đều gặp khó khăn, nhưng đối với Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh lại càng gặp khó khăn hơn vì có nhiều cơ sở ở rải rác diện rộng mà số cán bộ đảm nhiệm chuyên trách lại quá ít.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và yêu cầu nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước thời kỳ này, vấn đề xây dựng Đảng đã được Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh coi là công tác hết sức quan trọng. Do vậy trong hai năm (1966 - 1967), Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã tập trung vào công tác bồi dưỡng quần chúng để phát triển đảng viên mới. Mục tiêu phấn đấu của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh là phải phát triển đạt tỷ lệ 35% đảng viên so với tổng số cán bộ công nhân viên trong toàn Đảng bộ và lực lượng trẻ phải đạt từ 70 - 75%, đảng viên nữ chiếm tỷ lệ 30 - 35% tổng số đảng viên mới phát triển. Chỉ tính riêng năm 1966 toàn Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã kết nạp được 116 đảng viên mới, trong đó có 95 thanh niên chiếm tỷ lệ 82%; phụ nữ 22 đồng chí chiếm tỷ lệ 20%; so với năm 1965 tăng 64 đồng chí (năm 1965 phát triển được 52 đảng viên mới).
Để có kết quả trên, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã mở nhiều lớp cảm tình đảng cho quần chúng ưu tú tìm hiểu về Đảng. Ngoài số lớp do Đảng ủy mở, Đảng ủy còn chỉ đạo các đảng bộ cơ sở có trách nhiệm thường xuyên bồi dưỡng tại cơ quan, đơn vị, trong công tác hàng ngày cho cán bộ, công nhân viên. Đảng ủy xem đây là hình thức thiết thực nhất. Chính do đa dạng hoá các loại hình bồi dưỡng mà trong 3 năm (1965 - 1967) toàn Đảng bộ đã kết nạp được 200 đảng viên.
Đi đôi với công tác phát triển đảng viên, Đảng ủy còn không ngừng đẩy mạnh việc xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở 4 tốt. Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh luôn luôn nhận thức rõ vị trí của chi bộ và đảng bộ cơ sở là một khâu hết sức quan trọng, mấu chốt đã được ghi trong Điều lệ Đảng và nhất là trong điều kiện cả nước có chiến tranh, Trung ương Đảng xác định càng phải coi trọng nhiệm vụ xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở 4 tốt. Trọng tâm của công tác xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở 4 tốt là vấn đề củng cố, đấu tranh, xây dựng đoàn kết.
Từ những yêu cầu trên, hàng năm Đảng ủy giao chỉ tiêu cho các chi bộ, đảng bộ cơ sở phải đạt 4 tốt: Đảng viên phải đạt từ 80% trở lên, tổ đảng, chi bộ phải đạt trên 70% (4 tốt). Chính vì vậy mà việc xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở 4 tốt hàng năm đều có kết quả tốt. Đặc biệt, đề cao được vai trò của tổ chức cơ sở đảng, giải quyết được một số lớn về tình trạng mất đoàn kết nội bộ giữa các đồng chí lãnh đạo với nhau. Năm 1966, toàn Đảng bộ có 1.620 đảng viên dự phân loại. Kết quả có trên 76,5% số đảng viên đủ tiêu chuẩn 4 tốt, trên 80% số chi bộ, đảng bộ cơ sở đạt 4 tốt.
Quá trình bình xét 4 tốt, nhiều chi bộ, đảng bộ cơ sở tổ chức cho quần chúng phê bình đảng viên. Việc tổ chức cho quần chúng công khai phê bình đảng viên cho thấy là việc làm rất tốt; nó đã làm cho quan hệ giữa quần chúng và Đảng gắn bó rất chặt chẽ, đề cao uy tín của Đảng, tạo cho quần chúng lòng tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy mà việc bình bầu đảng viên, chi bộ, đảng bộ cơ sở 4 tốt hàng năm càng chặt chẽ hơn, vững chắc hơn, chất lượng được nâng cao.
Đề cao kỷ luật, tăng cường giáo dục đảng viên cũng đã được Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh hết sức coi trọng. Đảng ủy xác định: Kỷ luật Đảng là để đảm bảo sự thống nhất ý chí, hành động trong Đảng và trực tiếp giáo dục những đảng viên mắc sai lầm khuyết điểm. Đồng thời có tác dụng đối với việc giáo dục những đảng viên khác. Thấm nhuần những quan điểm chỉ đạo trên, những năm (1965 - 1967) Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã đẩy mạnh công tác kiểm tra Đảng, phát hiện và kiên quyết xử lý kỷ luật những đảng viên mắc sai lầm. Chỉ tính năm 1966 Đảng ủy đã kỷ luật 13 đảng viên, trong đó: Khai trừ 03, lưu lại Đảng 06 để giáo dục xem xét, 01 cách chức, 02 cảnh cáo, 01 khiển trách. Ngoài ra hàng năm còn phê bình sâu sắc, kiểm điểm nội bộ dưới cơ sở hàng chục trường hợp khác. Đặc biệt và nghiêm trọng hơn là một số cán bộ chủ chốt ở cơ sở bị mắc khuyết điểm, khiến cho quần chúng nhân dân châm biếm, xã hội mỉa mai cá nhân phạm lỗi gây ảnh hưởng không tốt... Tổng kết công tác kiểm tra năm 1967, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã nêu ra những nguyên nhân dẫn đến khuyết điểm của đảng viên là: Việc quản lý giáo dục đảng viên chưa được chặt chẽ, một số đồng chí mắc sai lầm về quan điểm, có đảng viên lập trường chưa vững, chưa đặt lợi ích Đảng lên trên hết, chưa thấy hết những ảnh hưởng tác hại khi sự việc sai lầm của mình; tuy nhiên vì hoàn cảnh sơ tán, mỗi người ở một nơi, nên việc giám sát, giúp đỡ lẫn nhau không được thường xuyên.
Trong điều kiện cả nước có chiến tranh, với khẩu hiệu thi đua chống Mỹ cứu nước: "Vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi", Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Hằng năm Đảng ủy chỉ đạo các đảng bộ, chi bộ cơ sở tổ chức cho cán bộ, đảng viên tập trung học tập các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy, nhất là đợt học tập Nghị quyết lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương (khoá III) vào giữa năm 1965 và Nghị quyết lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá III) vào đầu năm 1966. Về tình hình và nhiệm vụ mới, Đảng ủy coi đó là đợt chỉnh huấn nhằm làm cho cán bộ đảng viên nắm vững và sâu sắc hơn về tình hình, nhiệm vụ mới; trên cơ sở đó xác định chung cho toàn Đảng, toàn dân cũng như mỗi cá nhân đảng viên, cán bộ thấy được đầy đủ nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ cấp thiết phải tập trung nhân tài vật lực vào việc quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; đồng thời phải ra sức thi đua xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà, quán triệt tinh thần Nghị quyết của Trung ương, miền Bắc là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyến lớn.
Sau đợt học tập Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 7/1966, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh tổ chức đợt học tập lời kêu gọi của Bác Hồ. Nội dung học tập là nêu cao tinh thần quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, nhằm động viên giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân nhiệm vụ cấp thiết là quyết tâm chống Mỹ cứu nước, phát huy chí khí anh hùng cách mạng của dân tộc “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, xả thân vì Tổ quốc, không sợ hy sinh gian khổ quyết chiến đấu cho độc lập tự do.
Cũng trong thời gian này, Đảng Ủy Dân chính đảng tỉnh tổng kết 03 năm xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở 4 tốt (1964 - 1966). Tiếp đó tổ chức đợt học tập 7 bài học kinh nghiệm của đồng chí Lê Đức Thọ…nhằm làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng về công tác xây dựng Đảng; nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật cho tất cả các đảng viên, chống tư tưởng hạ thấp vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Song song với các đợt học tập trên, các cơ sở đảng tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập chỉ thị bảo vệ Đảng. Qua học tập ý thức xây dựng cơ sở đảng của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh được nâng lên rõ rệt.
Do đặc điểm các cơ quan phải đi sơ tán nhiều nơi, nên chủ trương của Đảng ủy là vừa làm công tác xây dựng Đảng kết hợp với các công tác khác như: Giúp đỡ phong trào địa phương nơi sơ tán đạt yêu cầu của 4 tốt. Để thực hiện chủ trương kết nghĩa Công - Nông, tạo ra mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa nhân dân với cán bộ, giữa cơ quan Nhà nước với địa phương nơi sơ tán, nhằm đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Qua đó làm cho cán bộ có thực tế, đi sâu đi sát nhân dân, thông cảm với khó khăn của hợp tác xã. Kế hoạch của Đảng ủy là: Chi bộ nào xây dựng 4 tốt cũng phải có kế hoạch giúp đỡ địa phương nơi sơ tán đạt được 4 tốt. Qua 2 năm sơ tán, nhiều cơ sở đảng trong Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã tạo được quan hệ tốt với nhân dân và được nhân dân tín nhiệm, nhiệt tình giúp đỡ. Thực hiện khẩu hiệu “Đi dân nhớ ở dân thương”, nhiều cơ quan, chi bộ đã giúp đỡ địa phương, chi, đảng bộ địa phương nơi sơ tán đạt 4 tốt.
Về công tác lãnh đạo Đoàn thanh niên Lao động: Điều lệ của Đảng đã ghi rõ: Đảng Lao động Việt Nam coi Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng. Tổ chức Đoàn thanh niên có nhiệm vụ góp phần tích cực vào việc tuyên truyền và thực hiện đường lối của Đảng. Thấm nhuần quan điểm trên, những năm 1965 - 1967, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh, phong trào thanh niên các cơ sở trong Khối Dân chính đảng tỉnh đã có bước phát triển tốt, và thực sự có tác dụng làm nòng cốt thúc đẩy mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị.
Đến cuối năm 1966 đầu năm 1967, Đoàn thanh niên thuộc Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh có gần 3.000 đoàn viên và thanh niên sinh hoạt ở trên 30 liên chi, chi đoàn, hoạt động dưới sự lãnh đạo, giáo dục trực tiếp của các cơ sở đảng. Vì đặc điểm và tính chất hoạt động của Đoàn thanh niên Dân chính đảng tỉnh là không có cán bộ chuyên trách, số lượng đoàn viên, thanh niên đông, diện hoạt động rộng, do đó Đoàn thanh niên hoạt động trong Khối Dân chính đảng tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế vai trò tác dụng của thanh niên vì hoạt động ở cơ quan, công nông trường, xí nghiệp khác với hoạt động ở nông thôn; cán bộ lãnh đạo của các cơ sở đoàn Dân chính đảng tỉnh nhiệm vụ chính là chuyên môn, còn hoạt động thanh niên là công tác vận động quần chúng làm việc ngoài giờ kết hợp với công tác chuyên môn. Do được sự quan tâm của Đảng bộ, nhất là được sự giúp đỡ thiết thực của cơ sở đảng trực tiếp nên những năm (1965 - 1967) hoạt động của Đoàn thanh niên Dân chính đảng tỉnh đạt nhiều kết quả tốt như: Tổ chức cho đoàn viên thanh niên học tập các gương anh hùng, học các bài nói chuyện của các vị lãnh tụ Đảng và Nhà nước... Trên cơ sở đó phát động phong trào thi đua, vì vậy luôn động viên được thanh niên phấn khởi, hăng hái công tác, hoàn thành nhiệm vụ.
Đi đôi với công tác lãnh đạo Đoàn thanh niên, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh rất coi trọng công tác lãnh đạo các hoạt động của tổ chức Công đoàn. Xuất phát từ đặc điểm, tình hình chung, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã tích cực chỉ đạo công tác vận động, thuyết phục, giáo dục công nhân viên chức giác ngộ chính trị, nâng cao tính giai cấp để hăng hái góp phần vào việc tham gia quản lý Nhà nước. Mặt khác, nhằm đem lại đời sống thiết thực cho quần chúng về quyền lợi học hành, giáo dục tư tưởng, chăm lo cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần cho toàn thể cán bộ, công chức cơ quan.
Về sản xuất tự túc: Mặc dù các cơ quan trong Khối Dân chính đảng tỉnh phải đi sơ tán, nhưng vấn đề sản xuất tự túc vẫn được tiếp tục thực hiện. Những nơi có điều kiện tăng gia sản xuất, chăn nuôi vẫn đạt được kết quả tốt, những nơi không có điều kiện thì các cơ quan, đơn vị xin hợp tác xã sở tại một số ruộng đất để tăng gia tự túc một phần lớn về rau xanh, điển hình như: Trường Sư phạm cấp II, Phòng Chăn nuôi, Công ty Tư liệu chăn nuôi, Phòng Quản lý ruộng đất thuộc Ty Nông nghiệp. Chỉ tính 12 đơn vị trong Khối đã cấy được 8 sào 6 thước lúa, thu hoạch được 942 kg thóc; chăn nuôi 19 con lợn, thả 500 con cá, 55 con gà, trồng rau các loại 6.079 kg.
Như vậy sau 3 năm (1965 - 1967) vừa sản xuất, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đời sống của cán bộ nhân viên gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tư tưởng, ảnh hưởng đến mọi hoạt động công tác. Song với quyết tâm nỗ lực chống thiên tai, giải quyết khó khăn về đời sống, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã lãnh đạo cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ ra sức vượt mọi khó khăn để chiến thắng đế quốc Mỹ, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm phấn đấu trong công tác và đã giành được nhiều thành tích, góp phần vào thắng lợi chung của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh.
Chương III
ĐẢNG BỘ DÂN CHÍNH ĐẢNG TỈNH HẢl HƯNG THÀNH LẬP, CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1968 - 1975)
Ngày 26/01/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 504/NQ-TVQH phê duyệt hợp nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Thực hiện Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ngày 09/02/1968, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng tổ chức Hội nghị lần thứ nhất bàn về việc sắp xếp bộ máy, phân công cán bộ, đề án công tác năm 1968. Ngày 01/3/1968, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Hưng ra Nghị quyết số 02/NQ-TU về việc hợp nhất các ban, ngành trong tỉnh và chỉ định các chức vụ lãnh đạo của các ban, ngành cụ thể.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên được hợp nhất thành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng. Ban Thường vụ Tỉnh ủy quyết định cử đồng chí Lê Văn Hướng làm Bí thư, các đồng chí: Vũ Minh Phượng, Vũ Đức Trào làm Phó Bí thư và 2 đồng chí ủy viên Ban Thường vụ. Ban Chấp hành gồm 21 đồng chí. Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng gồm có 27 đảng ủy cơ sở, 3 liên chi, 39 chi bộ cơ sở và 310 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở với tổng số 4.705 đảng viên; trong đó có trên 500 đảng viên dự bị, 1.385 đảng viên nữ (chiếm tỷ lệ 24,7%). Tổng số cán bộ công nhân viên có trên 14.000 người (mỗi đảng viên lãnh đạo 3 quần chúng). Có 27 cơ quan, xí nghiệp và 24 trường chuyên nghiệp. Tổ chức Đoàn thanh niên lao động gồm 24 đoàn cơ sở và 27 chi đoàn với trên 13.000 đoàn viên và gần 1.000 thanh niên. Đoàn viên là đảng viên có trên 1.500 đồng chí, chiếm tỷ lệ 27,5% trong tổng số đảng viên ở những nơi này.
Về thành phần giai cấp: Đảng viên thuộc thanh niên công nhân chiếm 4,4% (238 đồng chí), bần nông chiếm 42,8% (2.325 đồng chí), trung nông chiếm 29% (1.603 đồng chí), học sinh chiếm 6,8% (370 đồng chí).
Về thành phần theo nghề nghiệp xã hội của đảng viên: Cán bộ công nhân viên chiếm 73,1% (3.967 đồng chí), học sinh chiếm 21,2% (1.150 đồng chí), ngoài ra còn một số công nhân lái xe, công an bảo vệ và hưu trí.
Về trình độ văn hoá của đảng viên: Đảng viên có trình độ văn hoá cấp I chiếm 9,7% (518 đồng chí), trình độ văn hoá cấp II chiếm 67% (3.626 đồng chí), trình độ văn hoá cấp III chiếm 19,2% (1.046 đồng chí), có trình độ đại học chiếm 4% (236 đồng chí).
Về trình độ kỹ thuật của đảng viên: Đảng viên có trình độ kỹ thuật về công nghiệp, nông nghiệp, quản lý kinh tế và chuyên môn về y, dược, thủy sản chiếm 17,5% (953 đồng chí) trên tổng số đảng viên. Ngoài ra còn 142 đảng viên giáo viên cấp III, có 122 đảng viên giáo viên cấp II và 98 đảng viên giáo viên cấp I hoạt động ở các trường chuyên nghiệp và trường sư phạm.
Về tính chất chuyên môn, nghiệp vụ: Toàn Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh chia làm 6 Khối:
Như vậy sau khi hợp nhất, các cơ sở đảng trong Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh nhiều, số lượng đảng viên đông, thành phần xuất thân từ nông dân chiếm đại bộ phận, đảng viên có trình độ kỹ thuật tương đối khá, học sinh chuyên nghiệp nhiều. Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lại giữ một vị trí rất quan trọng, gồm những ty, ban, ngành, xí nghiệp trực tiếp nghiên cứu và phục vụ các kế hoạch Nhà nước và phong trào toàn tỉnh, gồm những trường đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật và sư phạm, có tác động vật chất và sức khỏe của quần chúng nhân dân trong tỉnh. Do đó công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng Đảng và các tổ chức quần chúng nhằm bảo đảm cho công tác chuyên môn đi đúng đường lối, có chất lượng cao đối với Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh là cực kỳ quan trọng. Song do Đảng bộ gồm nhiều cơ quan, đơn vị có tính chất chuyên môn nghiệp vụ khác nhau, nên chủ trương của Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh lúc này chủ yếu là truyền đạt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, của Tỉnh ủy và động viên chính trị, trên cơ sở đó các cơ sở đảng vận dụng vào tình hình cụ thể của cơ quan, đơn vị mà định ra phương hướng, nhiệm vụ cụ thể của đơn vị cơ quan mình để lãnh đạo phong trào.
Sau khi ổn định về mặt tổ chức, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng đã đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng củng cố tổ chức nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nội dung chủ yếu của công tác tư tưởng tập trung vào 2 hướng chính, là:
- Chỉ đạo học tập các chỉ thị, nghị quyết lớn của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy.
- Hợp nhất tổ chức, củng cố kiện toàn tổ chức để làm nòng cốt đẩy mạnh công tác chuyên môn, sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Đối với vấn đề học tập chính trị: Ngay năm 1968, Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo 2 đợt động viên chính trị toàn dân thực hiện nhiệm vụ “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, học tập Nghị quyết 167 của Trung ương Đảng về tăng cường công tác vận động nhân dân và đẩy mạnh hoạt động của tổ chức Công đoàn trong tình hình mới, song song với việc học tập những chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy về sản xuất chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Mặt khác, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh còn coi trọng công tác tổ chức, nhằm xây dựng kiện toàn tổ chức làm nòng cốt cho phong trào và bảo đảm cho công tác chuyên môn thực hiện đúng đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất nội bộ. Đảng ủy xác định: Nhiệm vụ của Đảng bộ là phải làm cho cán bộ, đảng viên thông suốt đường lối chính sách, chỉ thị, nghị quyết, nguyên tắc, chế độ, đồng thời phải coi trọng kiểm tra thường xuyên việc chấp hành của cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức để bổ khuyết, uốn nắn phê bình, đấu tranh, xử lý kịp thời đối với những người sai phạm.
Qua việc học tập Nghị quyết của Tỉnh ủy về “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” và Nghị quyết 60 về quản lý kinh tế, tài chính, Đảng ủy thẳng thắn phê bình một số cán bộ, đảng viên đã có vi phạm khuyết điểm: Vi phạm kỷ luật lao động; vi phạm nguyên tắc chính sách kinh tế tài chính, chính sách phân phối xã hội chủ nghĩa, ngoài ra còn một số cá nhân thiếu đoàn kết nội bộ.
Sau đợt học tập Nghị quyết 60 của Tỉnh ủy, vấn đề vi phạm kỷ luật lao động và vi phạm nguyên tắc chính sách tài chính và phân phối được các đảng bộ cơ sở tích cực sửa chữa. Các cơ quan, đơn vị xây dựng nội quy, quy chế, quy định rõ nhiệm vụ, chức trách, lề lối làm việc của cơ quan mình.
Đối với vấn đề đoàn kết từ sau ngày hợp nhất tỉnh đến cuối năm 1968 nhìn chung là tốt. Nếu có, đó là những mâu thuẫn nhỏ của hai tỉnh cũ để lại. Nhưng sau khi Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính - Kháng chiến tỉnh giải quyết kỷ luật, điều động một số cán bộ, thì bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, chia rẽ, bè phái...ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh.
Sau hợp nhất 02 Đảng bộ của hai tỉnh cũ, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng chủ trương: Song song với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải tiếp tục đẩy mạnh công tác bồi dưỡng quần chúng cảm tình để phát triển đảng viên mới. Riêng năm 1968 toàn Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã phát triển được 721 đảng viên mới, tỷ lệ đạt 13,28% so với tổng số đảng viên. Trong quá trình phát triển đảng viên mới, Đảng ủy đã chú ý hướng vào đoàn viên thanh niên là lao động tiên tiến, quan tâm đối tượng là phụ nữ, cán bộ kỹ thuật, đội ngũ giáo viên. Tuy nhiên, công tác phát triển đảng viên mới thành phần công nhân chưa được chú ý đúng mức, thậm chí có đơn vị trực tiếp sản xuất trong năm 1968 không phát triển được đảng viên nào như: Xí nghiệp In thuộc Đảng bộ cơ sở (Ty Văn hoá) có 24 đảng viên, nhưng còn 99 quần chúng trong đó có 45 quần chúng thành phần công nhân, 30 quần chúng thành phần bần nông nhưng việc phát triển đảng ở đây rất chậm; Đội Thi công điện (Ty Thủy lợi) có 11 đảng viên, mà quần chúng còn 70 người, nhưng 6 tháng đầu năm 1968 không phát triển được đảng viên nào...
Phong trào xây dựng đảng bộ, chi bộ, tổ đảng và đảng viên 4 tốt tiếp tục được các đảng bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc quan tâm coi đó là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng. Tháng 7/1968, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh tiến hành sơ kết về xây dựng Đảng 4 tốt 6 tháng đầu năm và phát động phong trào xây dựng Đảng 4 tốt 6 tháng cuối năm. Mặt khác, tổ chức học tập tài liệu “Đẩy mạnh phê bình, tự phê bình, khắc phục mâu thuẫn trong Đảng để củng cố đoàn kết và tăng cường sức chiến đấu của Đảng” của đồng chí Lê Đức Thọ. Tiếp đó học tập thư của Tỉnh ủy gửi cho toàn thể cán bộ, đảng viên nhân dịp sơ kết xây dựng Đảng 4 tốt.
Công tác xây dựng Đảng 4 tốt còn được kết hợp chặt chẽ với các đợt sinh hoạt chính trị của Đảng như: 2 đợt động viên chính trị nhằm thực hiện nhiệm vụ “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, mở Đại hội từ cơ sở đảng, tiến tới Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh; 2 đợt học đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và học tập Nghị quyết 06 của Tỉnh ủy. Quá trình xây dựng Đảng 4 tốt của Đảng bộ xoay quanh yêu cầu là: Đẩy mạnh đấu tranh nội bộ để đoàn kết nhất trí, xây dựng Đảng, thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu; bồi dưỡng đạo đức, rèn luyện tác phong cách mạng, đề cao tinh thần trách nhiệm, xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức làm chủ tập thể; chống tham ô, hủ hoá, tự tư, tự lợi.
Kết quả đạt danh hiệu 4 tốt năm 1968: Có 63 tổ chức cơ sở Đảng (4.710 đảng viên) đã hoàn thành việc bình bầu danh hiệu 4 tốt. Có 3.555 đồng chí đạt danh hiệu 4 tốt trên 4.583 đảng viên dự bình bầu, tỷ lệ đạt 75,39%, số còn lại có 491 đảng viên thuộc loại khá, 420 đảng viên trung bình, 102 đảng viên loại kém và 15 đảng viên quá kém. Tổng số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở dự bình bầu là 253, trong đó đạt đơn vị 4 tốt là 105 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, chiếm tỷ lệ 41%, có 86 chi bộ khá, 51 chi bộ trung bình và 11 chi bộ kém. Tổng số tổ đảng dự bình bầu là 570 tổ đảng, trong số này có 353 tổ đảng đạt tiêu chuẩn 4 tốt bằng 61,94%, có 120 tổ đạt loại khá và 79 tổ trung bình, còn 18 tổ đảng loại kém. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh họp tháng 12/1968, xét duyệt được 37 tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn đảng bộ 4 tốt, tỷ lệ 56,9%. Số còn lại có 15 tổ chức cơ sở Đảng loại khá, 8 tổ chức cơ sở đảng loại trung bình, 5 loại kém và 1 Đảng bộ mới thành lập không bình bầu.
Đi đôi với việc xây dựng cơ sở đảng 4 tốt, sau khi hợp nhất, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh chủ trương: Phải coi trọng việc xây dựng tổ chức quần chúng, chăm lo đời sống của quần chúng trong khối. Trước hết, Đảng ủy tập trung lãnh đạo thực hiện Nghị quyết 152 - 153 về “Công tác phụ vận và chính sách nữ’’; Nghị quyết 167 về “Công tác công vận và tổ chức Công đoàn” của Trung ương Đảng, đồng thời thực hiện Nghị quyết của tỉnh về “Xây dựng người thanh niên mới” nhằm xây dựng các tổ chức quần chúng, thông qua đó thực hiện thi đua yêu nước. Những chủ trương trên được cấp ủy các cấp triển khai thực hiện nghiêm túc. Các tổ chức cơ sở đảng đã tự kiểm điểm, liên hệ với thực tiễn đơn vị mình, phê phán khuyết điểm, qua đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ và bổ khuyết những tồn tại đối với công tác củng cố, xây dựng tổ chức quần chúng; từ đó giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân, giữa giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn với chính quyền, giữa cá nhân với tập thể...Do làm tốt công tác quần chúng, nên từ sau ngày hợp nhất tỉnh tuy Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh có nhiều khó khăn về mặt tổ chức, về đặc điểm thời chiến, về tình hình đột xuất của bão lũ gây ra, nhưng Đảng ủy vẫn động viên được quần chúng đem hết nhiệt tình của mình đóng góp vào việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan, đồng thời có nhiều cố gắng trong việc cải thiện đời sống, chăm lo sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên trong điều kiện cả nước có chiến tranh.
Từ tháng 9/1968 đến tháng 10/1968, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh tập trung chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở tổ chức Đại hội để chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất. Tháng 11/1969, Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất tại Hội trường trung tâm tỉnh ở thị xã Hải Dương, có gần 100 đại biểu tham dự. Đại hội đánh giá toàn bộ công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ kể từ khi hợp nhất hai Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh (Hải Dương - Hưng Yên), trong đó nêu bật thành tích về công tác chính trị tư tưởng, nhất là vấn đề giải quyết đoàn kết nội bộ trong các ban, ngành khi mới hợp nhất tỉnh và động viên cán bộ, đảng viên, quần chúng vượt mọi khó khăn trong chiến tranh, để hoàn thành công tác chuyên môn phục vụ cho nhiệm vụ “Vừa sản xuất vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu” của Đảng bộ tỉnh. Đại hội đề ra phương hướng công tác xây dựng Đảng là:
Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đẩy mạnh sinh hoạt chính trị và mọi mặt hoạt động của Đảng, nhằm hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, hoàn thành các chỉ tiêu về phát triển đảng, về xây dựng đảng bộ 4 tốt, ra sức phấn đấu thực hiện chủ trương 3 dứt điểm: (1) Dứt điểm tình hình tham ô, hủ hoá, lãng phí (lãng phí do tinh thần vô trách nhiệm gây ra), sử dụng của công nhập nhằng vô nguyên tắc; (2) dứt điểm tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ; (3) dứt điểm tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu nghiêm chỉnh trong việc chấp hành chủ trương chính sách, chỉ thị, nghị quyết.
Đồng thời Đại hội đề ra 2 phương châm về đấu tranh nội bộ là: Phải trái rõ ràng, tình nghĩa trọn vẹn và có lý có tình, tôn trọng lẫn nhau. Đại hội đề ra một số nhiệm vụ công tác cụ thể, đó là:
* Công tác chính trị, tư tưởng: Tiếp tục giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiên trì chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Tăng cường đoàn kết nhất trí, thực hiện nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chỉ thị nghị quyết của Tỉnh ủy, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh và đảng bộ cơ sở. Ra sức trau dồi đạo đức cách mạng, xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần dân chủ tập thể, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Giáo dục ý thức quyết tâm học tập khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế.
Để làm cho công tác chính trị, tư tưởng đi vào chiều sâu, Đại hội xác định phải song song đẩy mạnh một số biện pháp cụ thể: Phải kiên quyết duy trì sinh hoạt đảng theo đúng quy định của Điều lệ Đảng. Thông qua sinh hoạt đảng phải kịp thời phát hiện và giải quyết tốt những quan điểm và nhận thức không đúng trong chuyên môn. Thông qua sinh hoạt đảng phát huy vai trò tích cực chủ động sáng tạo và tính tiên phong gương mẫu của đảng viên trong công tác chuyên môn. Đẩy mạnh phê bình, tự phê bình thường xuyên và gắn chặt với các kỳ sơ kết, tổng kết công tác xây dựng Đảng, nhất là kỳ tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 1969. Phê bình và tự phê bình phải đạt được 2 yêu cầu là: Vừa động viên đề cao ý chí cách mạng tiến công, vừa đề cao tinh thần quyết tâm sửa chữa thiếu sót, khắc phục khó khăn để vươn lên. Đặc biệt đối với công tác quản lý cán bộ cần phải kết hợp chặt chẽ với công tác quản lý cán bộ của chính quyền mà đi sâu vào từng đối tượng phát hiện ra ưu khuyết điểm để có kế hoạch giúp đỡ cán bộ phát huy ưu điểm, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm. Phải đề cao tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng.
* Công tác phát triển đảng phải đảm bảo 2 yêu cầu: Tăng cường bồi dưỡng để phát triển đảng viên mới. Tập trung cao độ công tác bồi dưỡng với tinh thần khẩn trương, tích cực, tạo mọi điều kiện nâng trình độ nhận thức tư tưởng giác ngộ giai cấp cho đoàn viên thanh niên lao động và thành phần cơ bản khác. Để đảm bảo tốt việc phát triển đảng hàng năm, đồng thời chuẩn bị điều kiện phát triển đảng theo kế hoạch, các đảng bộ cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể: Cần khẩn trương hoàn thành mẫu thống kê điều tra quần chúng để phát triển đảng. Sau khi điều tra nắm chắc tình hình xong, cần tổ chức hội nghị học tập, liên hệ đối chiếu Nghị quyết 121 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về củng cố phát triển đảng. Cần có kế hoạch cụ thể về phát triển đảng cho những tổ công tác từ 5 đến 7 người mà vẫn chưa có đảng viên nào.
* Phải làm tốt công tác quần chúng: Triển khai học tập Nghị quyết 181 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết của Tỉnh ủy về công tác thanh vận làm cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên nắm vững tinh thần Nghị quyết 181 của Ban Bí thư Trung ương, Nghị quyết 76 của Tỉnh ủy và Nghị quyết 4 của Ban Thường vụ Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh về công tác quần chúng.
Trên cơ sở đường lối của Đảng, căn cứ vào tình hình thực tế và khả năng của từng cơ sở đảng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng là xây dựng chương trình kế hoạch nội dung giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng thanh niên một cách cụ thể để từng bước phấn đấu thực hiện nghị quyết một cách nghiêm chỉnh.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng khoá I gồm 21 đồng chí. Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã bầu đồng chí Lê Văn Hướng làm Bí thư, 7 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất và từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ được tăng cường. Trước hết là đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng lấy đó làm gốc để đảm bảo tính giai cấp công nhân của Đảng. Trong 2 năm (1969 - 1970), Đảng ủy đã tiến hành các đợt tuyên truyền, học tập rộng rãi các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước (cả về nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội), cử các đồng chí cấp ủy viên cơ sở tham gia các lớp giáo dục lý luận chính trị do Trường Đảng huấn luyện; mở các lớp giáo dục lý luận phổ thông cho đội ngũ đảng viên. Từ giữa năm 1969, Đảng ủy đã mở một đợt học tập rộng rãi về: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; sau đó là đợt học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 4/1970, Ban Thường vụ Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh phát động 3 cuộc vận động lớn là: Nâng cao chất lượng đảng viên, kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh và xây dựng chế độ làm chủ tập thể, trong đó cuộc vận động phát triển lớp đảng viên Hồ Chí Minh được chia làm nhiều đợt.
Bởi vậy, Đảng bộ bước đầu đã có những bước tiến bộ rất quan trọng, nhiều chi bộ trạm trại thuộc Đảng bộ Nông nghiệp, nhiều đơn vị sản xuất thuộc Đảng bộ Thủy lợi mặc dù còn tồn tại một số khuyết điểm, thiếu sót đã có chuyển biến lớn về tư tưởng, ý thức, tinh thần trách nhiệm và tính nguyên tắc đối với việc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một số cơ quan hành chính sự nghiệp đã quyết tâm thực hiện tốt những quy định về nhiệm vụ chức trách, nội quy nguyên tắc của cơ quan. Hầu hết các cơ sở đảng nhận thức sâu sắc Di chúc của Hồ Chủ tịch “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, vì lợi ích chung quyết tâm bảo vệ và giữ gìn đoàn kết nhất trí trong đơn vị và chi bộ mình.
Năm 1971, trận lũ lớn ác liệt chưa từng thấy diễn ra trên hầu khắp các huyện trong tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, nhiều đảng bộ, chi bộ bám sát cơ sở, kết hợp chặt chẽ với cơ quan, thực hiện đồng cam cộng khổ, tập trung cao độ trí sáng tạo, sức lao động của cán bộ, đảng viên và quần chúng, quyết bảo vệ tài sản tập thể xã hội chủ nghĩa. Nhiều cán bộ, đảng viên không quản nguy hiểm đã bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân và của cơ quan, đơn vị mình: Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh Hải Hưng và Đảng bộ Ty Y tế, trong tình thế nước ngập nhưng vẫn vững vàng trên vị trí của mình, nắm chắc quần chúng quyết phục vụ kỳ được bệnh nhân, quyết phòng chống kỳ được các bệnh tật xảy ra sau lũ lụt; Xí nghiệp Dược, Quốc doanh Dược, các trạm trại thuộc Đảng bộ Ty Nông nghiệp, các đơn vị sản xuất và các đơn vị trực tiếp làm công tác đê điều thuộc Đảng bộ Ty Thủy lợi ngày đêm không quản gian lao vất vả quyết bảo vệ kỳ được vật tư, nguyên liệu, đê điều; hạn chế đến mức thấp nhất sự tổn thất. Rất nhiều cơ quan hành chính sự nghiệp tích cực bảo vệ tốt tài liệu, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động phục vụ đắc lực cho Tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh nắm chắc tình hình chỉ đạo chặt chẽ hàng giờ, hàng phút trong lũ lụt.
Tháng 4/1972, cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt diễn ra vô cùng ác liệt trên khắp miền Bắc, nhưng Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã chủ động, kiên trì và đẩy mạnh tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết chiến quyết thắng, lòng tin tuyệt đối với sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, đề cao cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn xảo quyệt của địch, nên đã vững vàng trước mọi tình huống, chấp hành nghiêm chỉnh lệnh phòng không sơ tán, chuyển hướng mau lẹ từ thời bình sang thời chiến; chuyển hướng và đẩy mạnh mọi hoạt động cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới. Chính vì vậy mà Đảng bộ đã ổn định nhanh tổ chức và sinh hoạt, đưa công tác vào nề nếp, bảo đảm liên tục hoạt động, góp phần đắc lực cho việc phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và nhiệm vụ chuyên môn một cách tích cực. Điển hình như: Đảng bộ Xí nghiệp Dược, trong điều kiện sơ tán đã quyết tâm khắc phục khó khăn về điện, nước, nguyên vật liệu và công tác vận chuyển, tạo cho công việc sản xuất tiếp tục được bình thường; Bệnh viện Đa khoa trong điều kiện vừa sơ tán vừa phục vụ nạn nhân chiến tranh của tỉnh bạn gửi tới, vẫn làm tốt những nhiệm vụ đột xuất; Trường Sư phạm cấp II vừa sơ tán vừa tổ chức học tập tốt; Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy, Văn phòng Ủy ban hành chính tỉnh, Ban Tổ chức và Ban Kiểm tra Tỉnh ủy tuy có rất nhiều khó khăn trong điều kiện sơ tán vẫn bảo vệ tốt tài liệu, bảo vệ an toàn cơ quan và tham mưu đắc lực cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh chỉ đạo thông suốt và chặt chẽ khắp các huyện, thị xã và các công tác khác.
Đối với việc thực hiện chỉ tiêu chi viện tiền tuyến về người và của, các đảng bộ, chi bộ ở các cơ quan làm tham mưu cho Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh về mặt nông nghiệp và hợp tác hoá, về công tác vận động quần chúng, về công tác tổ chức và tư tưởng...đã ra sức xây dựng củng cố tổ chức cơ sở đảng, rèn luyện bồi dưỡng đảng viên, làm cho cơ quan đủ sức làm tham mưu đắc lực cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo toàn tỉnh.
Công tác xây dựng Đảng và phát triển đảng viên mới trong những năm (1969 - 1972) được tiến hành thường xuyên. Từ năm 1970, Trung ương Đảng và Tỉnh ủy ra một số nghị quyết về nâng cao chất lượng đảng viên, kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh và đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Thực hiện chủ trương của Trung ương và Tỉnh ủy, Đảng ủy đã xây dựng chương trình hành động trong công tác xây dựng Đảng theo nội dung 7 yêu cầu. Hầu hết các tổ chức cơ sở đảng nghiêm chỉnh triển khai Nghị quyết 195, Chỉ thị 175, Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác xây dựng Đảng; Nghị quyết 19, Chỉ thị 20 về 2 nhiệm vụ chiến lược trong tình hình mới, Nghị quyết 181, Chỉ thị 152, 153 về công tác dân tộc.
Dưới ánh sáng Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, các đảng ủy, chi ủy cơ sở đã nắm chắc được nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, chủ động đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng, kết hợp, phối hợp chặt chẽ với chính quyền ở cơ quan đơn vị để tiến hành công tác. Hầu hết các cơ sở đảng trong khối tiến hành thường xuyên sinh hoạt đảng, quản lý đảng viên, chỉ đạo các chi bộ đại hội đúng nhiệm kỳ...Trong sinh hoạt thẳng thắn phê bình và tự phê bình nhất là gắn phê bình trong các đợt sơ, tổng kết. Tuy nhiên vẫn còn nhiều cơ sở đảng còn lúng túng trong việc phân công đảng viên.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, nhiều đảng bộ, chi bộ, tổ đảng đã quan tâm đến chế độ quản lý đảng viên trên 3 mặt: Tư tưởng, công tác, sinh hoạt và kiểm tra đảng viên trên 3 mặt đó. Bởi vậy, việc phát hiện tình hình và việc phê bình đấu tranh nội bộ để giải quyết khuyết điểm của đảng viên được kịp thời.
Từ năm 1968 đến năm 1972 số vụ vi phạm kỷ luật trong toàn Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lên tới 275 vụ (năm 1968 tỷ lệ so với tổng số đảng viên là 0,61%, năm 1969 là 1,50%, năm 1970 là 1,82%, năm 1971 là 1,30%, năm 1972 là 2,07%). Năm 1972 số vụ kỷ luật tăng nhiều là do Đảng bộ tiến hành kiểm điểm theo Chỉ thị 192 ở 3 đảng bộ (Ty Nông nghiệp, Ty Thủy lợi và Trường Sư phạm cấp II). Trong số 275 vụ kỷ luật, thì có 43 vụ khiển trách, 80 vụ cảnh cáo, 11 vụ cách chức, 73 vụ lưu đảng, 68 vụ khai trừ. Tính chất vi phạm kỷ luật của đảng viên chủ yếu tập trung vào nội dung: Hủ hoá, tham ô và không chấp hành chỉ thị, nghị quyết, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật (hủ hoá 40%, tham ô 26%, không chấp hành 20%).
Trong lãnh đạo và chỉ đạo, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã quan tâm đến công tác bồi dưỡng đảng viên. Đảng ủy phân công trách nhiệm cho tổ chức cơ sở đảng được mở các lớp bồi dưỡng cho đối tượng đảng. Còn bồi dưỡng cho đảng viên, cấp ủy, tổ trưởng đảng thì tổ chức cơ sở chịu trách nhiệm về phần chiêu sinh, Ban Thường vụ Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh chịu trách nhiệm về giảng bài.
Kết quả: Trong các năm 1969, 1970, 1971 do điều kiện thuận lợi địch ngừng bắn phá miền Bắc, Đảng ủy đã mở được 34 lớp gồm 1.356 đối tượng cảm tình đảng, 14 lớp cho 716 đảng viên mới và 5 lớp cho 156 cấp ủy cơ sở và chi ủy viên chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở. Năm 1972 do chiến tranh phá hoại ác liệt Đảng ủy không mở được lớp nào.
Công tác phát triển đảng viên mới được các cơ sở đảng hết sức chú ý. Từ năm 1968 đến năm 1970 khi chưa có Nghị quyết 195 của Ban Bí thư Trung ương Đảng thì số lượng đảng viên mới được kết nạp trong Đảng bộ hàng năm tương đối lớn (năm 1968 kết nạp 721 đảng viên, năm 1969 kết nạp 536 đảng viên (tỷ lệ 10,25% so với tổng số đảng viên) và mấy tháng đầu năm 1970 kết nạp 37 đảng viên. Nhưng từ ngày 19/5/1970, thực hiện Nghị quyết 195 về nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, đến quý I năm 1973 toàn Đảng bộ phát triển được 88 đảng viên mới (trong đó có 52 đảng viên kết nạp trong lớp đảng viên Hồ Chí Minh). Trong đó: Thanh niên chiếm 90%, nữ chiếm 63%, công nhân trực tiếp 57%, văn hoá đại học và cấp 3 chiếm 44%. Các đảng viên lớp Hồ Chí Minh đều tiếp tục phát huy được ưu điểm, giữ vững danh hiệu lao động tiên tiến hoặc chiến sĩ thi đua liên tục, được công nhận chính thức đúng kỳ hạn.
Từ năm 1971 đến tháng 11/1972, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh làm thí điểm thực hiện Chỉ thị 192 ở 3 Đảng bộ cơ sở (Ty Nông nghiệp, Ty Thủy lợi và Trường Sư phạm cấp II). Qua làm thí điểm việc thực hiện Chỉ thị 192 đã làm cho các tổ chức cơ sở đảng nói trên trong sạch về chính trị, vững mạnh về tổ chức, có tác dụng thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan đơn vị.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết 152, 153 của Đảng và Nghị quyết 30 của Hội đồng Chính phủ về công tác phụ vận và chính sách đối với cán bộ nữ và Nghị quyết 181 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác thanh vận, kết hợp chặt chẽ với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lần thứ nhất (T11/1968) về tăng cường lãnh đạo công tác quần chúng. Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã có những chủ trương chỉ đạo thực hiện cụ thể, đó là: Năm 1969, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh mở Hội nghị cán bộ cấp ủy cơ sở để bàn kế hoạch thực hiện Nghị quyết 181. Đầu năm 1972, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh mở tiếp Hội nghị cấp ủy cơ sở để triển khai chỉ thị của Tỉnh ủy về phát động thi đua học tập và noi gương anh hùng liệt sĩ Lê Thị Hồng Gấm...Trên cơ sở đó quán triệt quan điểm của Trung ương về công tác phụ vận, bổ khuyết thiếu sót và phát huy ưu điểm.
Đồng thời, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, các tổ chức cơ sở đảng còn trực tiếp lãnh đạo phong trào thi đua học tập và noi gương anh hùng Lê Mã Lương trong thanh niên, Lê Thị Hồng Gấm trong phụ nữ, phát huy khí thế “Ba sẵn sàng” trong thanh niên, “Ba đảm đang” trong phụ nữ với phong trào 7 mũi giáp công phục vụ nông nghiệp trong cán bộ, công nhân viên chức. Đặc biệt, các cấp ủy đã quan tâm lãnh đạo tổ chức Công đoàn cơ sở phát động phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Công đoàn các cấp, tiến tới Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ III.
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 21 ủy viên (19 ủy viên chính thức và 02 đảng ủy viên dự khuyết). Nhưng do quá trình thuyên chuyển công tác, đến đầu năm 1973 số ủy viên Ban Chấp hành còn 14 đồng chí (01 đồng chí Phó Bí thư được điều đi công tác ở miền Nam, 01 đồng chí ủy viên Ban Thường vụ và 03 ủy viên Ban Chấp hành được điều động sang Đảng bộ khác và 02 đồng chí ủy viên Ban Chấp hành về hưu).
Căn cứ vào tình hình thực tế của Đảng bộ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ II được tiến hành trong 02 ngày, từ ngày 05- 7/4/1973 tại thị xã Hải Dương.
Đại hội đã kiểm điểm sâu sắc việc thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy. Căn cứ vào nhiệm vụ chung mà Trung ương Đảng và Chính phủ đã chỉ ra trong lời kêu gọi ngày 28/1/1973 và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh, xuất phát từ tình hình đặc điểm và chức năng nhiệm vụ của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh, Đại hội đã nhất trí quyết định phương hướng phấn đấu chung của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh trong thời gian tới là: “Tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ, trong tất cả các tổ chức cơ sở đảng; nâng cao tính tiên phong gương mẫu, động viên toàn thể cán bộ đảng viên và quần chúng biến chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu thành quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội; biến tinh thần phấn khởi, tự hào và khí thế chiến thắng thành hành động cách mạng cụ thể trong lao động sản xuất, trong công tác và học tập, phấn đấu tiếp tục nâng cao chất lượng đảng viên, nâng cao hiệu lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, củng cố các cơ sở yếu kém, giải quyết tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ, tăng cường lãnh đạo các tổ chức quần chúng, chăm lo đời sống, vật chất và văn hoá của quần chúng. Phấn đấu đưa Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh thành Đảng bộ phấn đấu tốt, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chung của tỉnh, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới, góp phần cùng quân và dân cả nước giữ vững hoà bình hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và xây dựng nước ta trở thành một nước cường thịnh”. Để thực hiện tốt phương hướng trên, Đại hội đề ra nhiệm vụ cụ thể, đó là:
Đại hội tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng khoá II gồm 17 đồng chí, trong đó có 02 ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính Đảng tỉnh lần thứ nhất (khoá II) đã bầu đồng chí Lê Văn Hướng làm Bí thư, bầu 02 Phó Bí thư và 04 ủy viên Ban Thường vụ.
Đến tháng 4/1973 Đảng bộ còn 43 chi, đảng bộ cơ sở (trước có 64) với 2.169 đảng viên (trước có 5.426). Sở dĩ có sự thay đổi lớn như vậy là vì một số tổ chức cơ sở đảng nay đã chuyển đi nơi khác như: Trường phổ thông lao động Trung ương, Trường Thủy sản Trung ương chuyển về Dân chính đảng Trung ương 2; một số tổ chức cơ sở đảng khác chuyển về Đảng bộ ủy ban Nông nghiệp như: Ty Nông nghiệp, Ty Thủy sản, Trường Tô Hiệu, Quốc doanh máy kéo, Quốc doanh nuôi ong, Công ty tư liệu nông nghiệp, một bộ phận của Ban Nông nghiệp và Liên chi Nông Giang (Trước ở Đảng bộ Thủy lợi). Đồng thời có một số chi bộ giải thể như: Chi bộ Hội phổ biến khoa học, vật tư liên tỉnh và một số chi bộ nhà trường chuyên nghiệp. Trong số 43 tổ chức cơ sở đảng có 01 Đảng bộ cơ sở có liên chi, 16 đảng bộ cơ sở và 26 chi bộ cơ sở, 143 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở và 303 tổ đảng. Trong tổng số 2.169 đảng viên (có 518 nữ) được chia thành 4 khối như sau:
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lần thứ II vào thời kỳ Hiệp định Paris đã được ký kết, hoà bình được lập lại ở Việt Nam, Mỹ rút hết đội quân xâm lược về nước. Nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân ta là đưa nhanh sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh thực hiện Hiệp định Paris, tiến tới thống nhất đất nước.
Trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lần thứ II, Đảng ủy còn tổ chức triển khai, thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy như Nghị quyết 22, Nghị quyết 228 của Trung ương Đảng và Nghị quyết 193, 194, 195, 188 của Tỉnh ủy.
Thi hành các Nghị quyết trên, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã tập trung cao độ vào việc thực hiện Nghị quyết 210, Chỉ thị 192 của Trung ương Đảng và Nghị quyết 145, 129 của Tỉnh ủy, đồng thời lấy những văn kiện này làm nhiệm vụ trung tâm trong công tác xây dựng Đảng, để kết hợp thực hiện các chỉ thị, nghị quyết khác của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy và nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh. Do nhận thức sâu sắc và triển khai đồng bộ các mặt hoạt động nên trong những năm 1973 - 1974 Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã đạt được nhiều thành tích trong công tác xây dựng Đảng.
Trước hết Đảng ủy tập trung chỉ đạo công tác giáo dục lý luận chính trị (tại chức, tập trung) theo chương trình trung, sơ cấp. Từ tháng 9/1973 đến tháng 9/1974, Đảng bộ đã hoàn thành đợt học tập lý luận chính trị tại chức về 6 bài đường lối chính sách và 2 bài về công tác xây dựng Đảng theo chương trình sơ cấp cho toàn thể đảng viên là cán sự 1, 2, 3 và những cán bộ tương đương, gồm 10 lớp với 820 học viên. Điển hình là đảng bộ Ty Thủy lợi không những dẫn đầu về tổ chức, lãnh đạo các lớp sơ cấp và cơ sở tại chức, mà còn mở được các lớp bồi dưỡng khác song song với quá trình cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt.
Mặt khác, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh còn phân công, phân nhiệm rõ ràng cho từng cấp ủy cơ sở chịu trách nhiệm tổ chức, lãnh đạo và giảng dạy cho đảng viên, nên một số đảng bộ cơ sở đã tích cực mở lớp lý luận chính trị như: Ty Thủy lợi, liên cơ y tế với Thương binh xã hội, liên cơ Xí nghiệp Dược và quốc doanh Dược, liên cơ của các ban Đảng và dân vận do Chi ủy Chi bộ Văn phòng Tỉnh ủy đứng ra chủ trì. Như vậy từ tháng 4/1973 đến tháng 11/1974, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã mở được 7 lớp lý luận chính trị cho 480 đồng chí. Ngoài ra, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh và một số đảng bộ cơ sở như Ty Thủy lợi, Ty Văn hoá, Trường Sư phạm cấp II, Chi bộ Đông y còn mở được một số lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho đảng viên mới, đảng viên yếu kém từng mặt, đảng viên giác ngộ chính trị quá thấp, lớp bồi dưỡng về công tác xây dựng Đảng.
Nhờ có các lớp học lý luận chính trị tại chức và các lớp bồi dưỡng khác, đảng viên đã nâng được nhận thức lên một bước về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, về chuyên chính vô sản, về đường lối phát triển công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, về nguyên lý, phương hướng, phương châm xây dựng Đảng trong giai đoạn cách mạng mới.
Sau khi làm thí điểm việc triển khai Chỉ thị 192, Nghị quyết 129 tại 3 đảng bộ (Ty Nông nghiệp, Ty Thủy lợi, Trường Sư phạm cấp II), Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã chủ động mở 02 lớp triển khai, quán triệt Chỉ thị 192 và Nghị quyết 129 cho cán bộ, đảng viên toàn Đảng bộ. Để thực hiện tốt Chỉ thị và Nghị quyết nói trên, Đảng ủy chủ trương chỉ đạo, tập trung giải quyết các nơi có mâu thuẫn nội bộ, củng cố các chi bộ, tổ đảng yếu kém, giải quyết kịp thời các vụ kỷ luật, nhằm chuẩn bị địa bàn để triển khai thực hiện đồng loạt Chỉ thị 192 ở tất cả các đơn vị.
Đại đa số tổ chức cơ sở đảng được bồi dưỡng tốt về các văn kiện trong cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên; thực hiện được phương châm tự làm, phát động đẩy mạnh được công tác chuyên môn; tăng cường được đoàn kết, nhất trí, xây dựng củng cố tổ chức chi bộ vững mạnh hơn; phát hiện và đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá biến chất. Ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương chính sách, pháp luật được đề cao hơn.
Song song với việc triển khai Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng triển khai Nghị quyết 22 và 228 của Trung ương Đảng, triển khai Nghị quyết 193, 194, 195 và 188 của Tỉnh ủy. Qua đó làm cho đảng viên thấm nhuần tư tưởng chủ đạo và những quan điểm cơ bản là phải: Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đưa nền kinh tế miền Bắc từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Những quan điểm trên được gắn với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị để phát động các đợt thi đua quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho. Kết quả nhiều cơ quan quyết tâm làm tốt công tác điều động cán bộ đi công tác B, C như: Ty Thủy lợi, Ty Y tế, Ty Giáo dục...
Gắn với việc thực hiện Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết 19 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã bồi dưỡng cho hầu hết đảng viên về công tác kiểm tra, xử lý kỷ luật, cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, vị trí, vai trò, chức năng của đảng bộ, chi bộ cơ quan; nhằm củng cố đoàn kết, giải quyết tình trạng yếu kém, mâu thuẫn nội bộ.
Năm 1974 đã có 43 tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh tiến hành đại hội kiện toàn tổ chức. Việc tiến hành đại hội ở cơ sở để bầu cấp ủy mới đã bảo đảm được nguyên tắc tập trung dân chủ, đảng viên phấn khởi tin tưởng vào sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng.
Công tác phát triển đảng viên mới trong nhiệm kỳ khoá II của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh cũng có những nét mới. Các tổ chức cơ sở đảng hướng vào quần chúng ưu tú trẻ, nữ trực tiếp lao động sản xuất và tầng lớp trí thức. Năm 1973 toàn Đảng bộ phát triển được 18 đảng viên mới, đầu năm 1974 phát triển được 21 đảng viên mới. Tuy nhiên việc bồi dưỡng đối tượng đảng chưa được quan tâm đầy đủ, có nơi xuất hiện tư tưởng sợ trách nhiệm không muốn phát triển đảng viên mới, việc xét duyệt kết nạp Đảng của Ban Thường vụ Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh còn chậm.
Về lãnh đạo công tác quần chúng: Nhiệm kỳ II, Đảng ủy tập trung chỉ đạo đợt sinh hoạt chính trị về Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ III và đợt học tập Nghị quyết 46 của Hội đồng Chính phủ và Tổng Công đoàn Việt Nam...Qua các đợt sinh hoạt chính trị đã phát động cán bộ công nhân viên phát huy tinh thần làm chủ tập thể nhiệt tình lao động sản xuất, công tác, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội...Tăng cường quản lý thị trường, quản lý lao động, giữ gìn trật tự trị an. Bởi vậy, năm (1973 - 1974) các tổ chức cơ sở đảng đã đẩy mạnh 7 mũi giáp công, hỗ trợ và phục vụ đắc lực nông nghiệp bảo đảm vụ đông - xuân (1973 - 1974) thắng lợi chưa từng có. Các cấp ủy còn lãnh đạo tốt đại hội công đoàn cơ sở đạt kết quả tốt. Nhiều nơi còn chú ý tăng gia cải thiện, xây dựng nhà ăn “3 tốt” như: Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ty Thủy lợi, Viện Kiểm sát, Ủy ban hành chính tỉnh...
Riêng về Đoàn thanh niên Lao động, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy, nhiều cơ sở Đoàn đã thực hiện tốt Nghị quyết của Đảng ủy, tổ chức tốt việc xét, bình bầu 28 cán bộ đoàn viên ưu tú đi dự Đại hội 3 sẵn sàng của tỉnh. Qua đó đã có tác dụng cổ vũ phát động được phong trào thanh niên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điển hình là các tổ chức đoàn cơ sở: Thủy lợi, Thông tin, Ủy ban bảo vệ bà mẹ trẻ em và Bệnh viện Đa khoa tỉnh. Mặt khác 42 cơ sở đoàn đã tổ chức phát động phong trào thanh niên tình nguyện xây dựng Tổ quốc, xây dựng quê hương với đăng ký phấn đấu 25 ngày công trong 01 tháng và 8 giờ có hiệu quả công tác cao trong 01 ngày. Chỉ tính ở 12 cơ sở với 682 đoàn viên đăng ký đã có 598 đoàn viên thực hiện đúng chương trình đã đăng ký.
III. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ DÂN CHÍNH ĐẢNG TỈNH HẢI HƯNG LẦN THỨ III VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM 1974 - 1975
Từ Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lần thứ II (T4/1973) đến tháng 11/1974, trong suốt nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh không có sự biến động (17 đồng chí). Tổng số cơ sở đảng trước có 43 nay 44 (tăng 01 cơ sở), trong đó có 01 đảng bộ có liên chi, 16 đảng bộ cơ sở, 27 chi bộ cơ sở, bao gồm 03 liên chi, 150 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, 315 tổ đảng. Tổng số đảng viên trước có 2.169 đồng chí nay có 2.225 đảng viên, trong đó có 529 đảng viên nữ, 15 đảng viên dự bị, 73 đảng viên lớp Hồ Chí Minh, 21 đảng viên hưu trí; được chia ra 4 Khối:
- Khối bệnh viện: 02 cơ sở với 112 đảng viên.
Nhằm đánh giá tình hình Đảng bộ, những ưu, khuyết điểm trong việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy và kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lần thứ II, trên cơ sở đó rút ra kinh nghiệm và đề ra phương hướng nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ III (1974 - 1975), Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ III đã được tổ chức trong 02 ngày, 11-13/12/1974 tại thị xã Hải Dương, gồm 120 đại biểu đại diện cho 2.225 đảng viên trong toàn Đảng bộ về dự. Đánh giá nhiệm kỳ II (1973 - 1974) Đại hội khẳng định:
Đại hội cũng đã chỉ ra một số nhược điểm, tồn tại đó là: Do chưa quán triệt đầy đủ tình hình và nhiệm vụ cơ bản của 2 miền Nam Bắc, do ảnh hưởng lề thói và sinh hoạt của người sản xuất nhỏ trong đảng viên, nên tinh thần làm chủ tập thể của một số đảng viên chưa thực sự được phát huy; tình trạng vi phạm kỷ luật lao động có giảm nhiều so với trước, song vẫn còn là tình trạng phổ biến...Bởi vậy phải tiếp tục giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện và đấu tranh quyết liệt với sai trái(2).
Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh, căn cứ vào tình hình thực tế của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh, Đại hội đã đi đến quyết định nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu trong công tác xây dựng Đảng trong những năm (1974 - 1975) là: Trên cơ sở tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa Nghị quyết 22 và 228 của Trung ương Đảng và Nghị quyết 193, 186 của Tỉnh ủy, phát huy thắng lợi cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường củng cố thật vững mạnh các đảng bộ, chi bộ về tư tưởng và tổ chức; tiếp tục tăng cường công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, văn hoá, nghiệp vụ, kỹ thuật và tư tưởng cho cán bộ, đảng viên theo đúng tinh thần Nghị quyết 210 và Nghị quyết 145; xây dựng tư tưởng cách mạng tiến công; ý thức làm chủ tập thể, tác phong và sinh hoạt cần kiệm, đi sâu, đi sát, chịu suy nghĩ tìm tòi; sáng tạo trong công tác; khắc phục mọi biểu hiện tư tưởng tiêu cực trong lao động, công tác, chiến đấu và học tập; chống quan liêu, mệnh lệnh, tự do tản mạn, móc ngoặc, lợi dụng, tham ô, ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, nhằm dốc toàn tâm toàn lực vào phấn đấu hoàn thành vượt mức, chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1975, trước mắt chi viện đắc lực cho sản xuất nông nghiệp giành vụ đông - xuân 1974 - 1975 toàn thắng 1. Đại hội đề ra một số nhiệm vụ cụ thể là:
Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ III tiến hành bầu cử Ban Chấp hành Đảng bộ khoá III gồm 17 đồng chí. Tại phiên họp đầu tiên vào ngày 13/12/1974, Ban Chấp hành đã bầu đồng chí Ngô Quang Đạo làm Bí thư; các đồng chí Nguyễn Đức Nam và Nguyễn Thanh Dương làm Phó Bí thư; bầu 02 đồng chí Doãn Thế Tịch và Nguyễn Văn Cừ vào Ban Thường vụ.
Thông qua việc kiện toàn tổ chức, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã tiến hành kiểm điểm, phê bình, tự phê bình ở mỗi cấp ủy cơ sở, làm cho từng cá nhân cán bộ đảng viên thấy rõ được mặt mạnh, mặt yếu, trên cơ sở đó sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, làm cho Đảng bộ ngày càng mạnh trong lãnh đạo và chỉ đạo.
Bước sang năm 1975, tình hình trong nước có biến đổi quan trọng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với 55 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 05/3/1975 đến 30/4/1975), quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, tạo bước ngoặt lịch sử đưa cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới: "Giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội". Trong thắng lợi vĩ đại chung của đất nước có phần đóng góp của cán bộ, đảng viên các cơ quan, đơn vị trong Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh.
Chương IV
ĐẢNG BỘ DÂN CHÍNH ĐẢNG TỈNH HẢI HƯNG
GIAI ĐOẠN (1975 - 1985)
Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nước ta hoàn toàn thống nhất, cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tháng 4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá VI nhằm thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước đã thành công tốt đẹp. Tháng 12/1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã thành công rực rỡ. Đại hội đề ra đường lối xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới nhằm đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Triển khai thực hiện đường lối xây dựng đất nước của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất (T4/1975) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ III trong điều kiện đất nước được thống nhất có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng và tình cảm của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự hướng dẫn của các Ban của Đảng và sự quan tâm đến công tác xây dựng Đảng của Ban cán sự đảng, của các Đảng đoàn và thủ trưởng cơ quan, đơn vị, Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã triển khai tốt nhiều đợt sinh hoạt chính trị trong nội bộ Đảng và trong các đoàn thể quần chúng, nhằm nghiên cứu, thảo luận và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh lần thứ III, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất, Nghị quyết 23 và 24 (khóa III) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng..., đặc biệt là Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng.
Qua các đợt sinh hoạt chính trị đã làm cho cán bộ, đảng viên quán triệt sâu sắc hơn thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất trí với đánh giá của Trung ương về thành tích to lớn của Đảng, giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao thêm nhận thức về tính chất của Đảng, về phương châm xây dựng Đảng, hiểu rõ hơn nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo, vai trò, vị trí, chức năng của tổ chức cơ sở đảng, vai trò tiên phong của người đảng viên trong giai đoạn mới của cách mạng. Cũng qua sinh hoạt chính trị, nghiên cứu Nghị quyết của Trung ương làm cho cán bộ đảng viên nhận thức sâu sắc hơn thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong 45 năm qua từ khi có Đảng; thắng lợi mùa xuân 1975 là thắng lợi trọn vẹn và vững chắc của sự nghiệp độc lập và thống nhất Tổ quốc, mở ra giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự chuyển biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ biểu hiện rõ nét trong việc tiến hành liên hệ tự phê bình và phê bình trong mỗi cấp ủy đảng, mỗi tổ đảng, chi bộ và mỗi cá nhân đảng viên; trên cơ sở đó đề ra phương hướng và hành động cách mạng cụ thể, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh, ra sức thi đua thực hiện thắng lợi kế hoạch sản xuất và chương trình công tác năm 1975.
Nhờ biết gắn công tác giáo dục chính trị tư tưởng với việc hoàn thành nhiệm vụ công tác chuyên môn, ngành thủy lợi đã huy động đến mức cao nhất cán bộ, đảng viên và quần chúng tham mưu đắc lực cho Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh trong việc chỉ đạo các huyện, thị làm hoàn chỉnh hệ thống thủy nông, đảm bảo vượt chỉ tiêu kế hoạch về tưới, giảm diện tích úng. Đảng bộ Thủy lợi còn kết hợp chặt chẽ với Đảng đoàn cơ quan, động viên cán bộ, công nhân viên tập trung làm tốt công tác phòng chống lụt, hoàn thành 102% kế hoạch đắp đê do Trung ương giao; Công ty xây lắp Điện lực đạt 113,5% kế hoạch cả năm. Một chuyển biến đáng kể là công tác quản lý kinh tế đã ngày càng đi vào nền nếp: Xí nghiệp Dược phẩm đã phấn đấu đạt 105,15% kế hoạch cả năm, so với năm 1974 tăng 4,5%, với 998 mẫu thuốc, trên 45 mặt hàng; Bệnh viện Đa khoa tỉnh phấn đấu nâng cao chất lượng điều trị, số giường của bệnh viện đều tăng từ 50 - 75 giường so với chỉ tiêu giao, chỉ tiêu khám bệnh vượt 30%. Năm 1975, các trường Sư phạm và Bổ túc văn hoá đã không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt trên 95%.
Các cơ quan hành chính sự nghiệp mặc dù công việc nhiều, số người lại không tăng, thậm chí có cơ quan còn điều cán bộ đi công tác miền Nam, đi xây dựng vùng kinh tế mới..., nhưng kế hoạch và chương trình công tác vẫn hoàn thành tốt và có chất lượng cao. Các Ban tổ chức Đảng và chính quyền đã có nhiều thành tích xuất sắc trong việc giúp Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh chỉ đạo có kết quả nhiều công tác quan trọng về công tác tổ chức và cán bộ. Đã giúp Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh chỉ đạo tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá V ở tỉnh và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Đảng bộ Ban Tuyên huấn cũng đã có nhiều đóng góp tích cực giúp Tỉnh ủy chỉ đạo các mặt công tác tuyên truyền và huấn luyện; đặc biệt đã giúp Tỉnh ủy chỉ đạo có kết quả tốt các đợt sinh hoạt chính trị nghiên cứu Nghị quyết 23 và 24 của Trung ương và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất. Đảng bộ Ban Nông nghiệp với số cán bộ có hạn, đã tập trung chỉ đạo có kết quả nhiều mặt công tác quan trọng, tiêu biểu là tổ chức thành công Đại hội đại biểu Nông dân tập thể của tỉnh; giúp Tỉnh ủy chỉ đạo có hiệu quả việc thực hiện Chỉ thị 104 của Ban Bí thư Trung ương về tổ chức lại sản xuất nông nghiệp.
Đảng bộ Ủy ban Kiểm tra với khối lượng công tác lớn, như tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thành việc thực hiện và tổng kết Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng... với tinh thần phấn đấu cao, cán bộ đảng viên trong Đảng bộ đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra đề ra. Cán bộ, đảng viên ở các ngành thông tin văn hoá, thể dục thể thao đã tích cực phấn đấu, vừa hoàn thành tốt những nhiệm vụ thường xuyên, vừa phục vụ đắc lực cho những ngày lễ lớn trong tỉnh, đặc biệt là đợt phục vụ mừng chiến thắng 30/4/1975, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Cán bộ, đảng viên ở các ngành lao động, thương binh xã hội, giáo dục... đã có nhiều cố gắng kịp thời phục vụ cho các mặt sản xuất, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân, cán bộ công nhân viên chức cơ quan và giải quyết các chính sách xã hội.
Các đảng bộ ở các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đã có nhiều cố gắng trong việc giáo dục và động viên quần chúng ngành giới mình, đẩy mạnh phong trào thi đua sôi nổi trong Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, các cụ phụ lão, trong công nhân viên chức, góp phần tích cực đưa phong trào tiến lên một cách đồng đều và vững chắc cả trong khu vực cơ quan xí nghiệp, công nông trường, bệnh viện, trường học... Cán bộ đảng viên ở các ngành pháp lý như: Toà án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc đẩy mạnh đấu tranh chống vi phạm và tội phạm hình sự, phục vụ đắc lực cho việc triển khai Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị.
Những thành tích mà các tổ chức cơ sở đảng đạt được đã làm sáng tỏ thêm ý nghĩa thực tiễn của công tác giáo dục chính trị tư tưởng của các đảng bộ, chi bộ cơ sở; đó là kết quả của việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng, Nghị quyết lần thứ 23 và 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III. Kết quả đó đã đóng góp vào thắng lợi chung của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Hưng trong quá trình phấn đấu thực hiện Nghị quyết lần thứ 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III,+ kết thúc thắng lợi thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế 2 năm (1974 - 1975) của tỉnh.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và sự giúp đỡ của các Ban Đảng tỉnh, đến tháng 5/1975, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã hoàn thành việc thực hiện Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và đến đầu tháng 1/1976 đã tiến hành tổng kết việc thực hiện Chỉ thị 192 trong toàn Đảng bộ. Thông qua việc thực hiện Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã giúp cho các tổ chức cơ sở đảng nắm chắc hơn tình hình đội ngũ đảng viên, giúp cho công tác quản lý đảng viên có chiều sâu.
Đi đôi với công tác triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, năm 1975 Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã không ngừng coi trọng việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên. Đến đầu năm 1976, việc học tập chính trị lý luận đã được Đảng bộ đưa vào nề nếp với hình thức học tại chức cho tất cả đảng viên trong Đảng ủy theo chương trình cơ sở và sơ cấp. Mặt khác, Đảng ủy phối hợp với Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy mở được một lớp trung cấp cho các đồng chí là cán bộ chỉ đạo, cán bộ quản lý và cán bộ nghiên cứu từ cán sự 4 trở lên. Chỉ tính năm 1975 toàn Đảng bộ có 540 đồng chí học chương trình sơ cấp, 450 đồng chí học chương trình cơ sở và 215 đồng chí học chương trình trung cấp. Ngoài ra, còn 41 đồng chí được cử đi học chương trình trung cao cấp ở trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương.
Song song với học lý luận chính trị, nhiều đảng bộ đã có 100% số cán bộ đảng viên trong độ tuổi đi học bổ túc văn hoá. Các ban của Đảng (Ban Tổ chức, Ban Tuyên huấn, Ban Kiểm tra), Ban Nông nghiệp, Ban Tổ chức Chính quyền, Văn phòng Tỉnh ủy, Ty Giáo dục, Ty Thương binh xã hội, các đoàn thể (Thanh niên, Phụ nữ), Toà án Nhân dân, Viện Kiểm sát và một số đảng bộ khác đã tích cực chủ động giải quyết bằng cách mở lớp học văn hoá riêng, mở lớp liên cơ, hoặc cử cán bộ đảng viên đi học tập trung tại trường; Đảng bộ Thủy lợi đã mở được một lớp cho 36 cán bộ công nhân viên cơ quan; Đảng ủy Xí nghiệp Dược phẩm đã huy động trên 75% số cán bộ công nhân viên chức trong độ tuổi đi học tới lớp; nhiều đảng bộ có kế hoạch và biện pháp cụ thể chỉ đạo tốt việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên bằng các hình thức: Tại trường hoặc tại chức, bằng các nội san, chuyên san của ngành hoặc bằng cách thông qua việc tổng kết, sơ kết từng việc, từng đợt công tác chuyên môn. Các đơn vị sản xuất kinh doanh như: Công ty Xây lắp Thủy lợi, Xí nghiệp Dược, Quốc doanh Dược phẩm đã tổ chức kiểm tra tay nghề và nâng bậc cho hàng trăm công nhân. Liên hiệp Công đoàn tỉnh vẫn duy trì và củng cố lớp trung cấp quản lý kinh tế tại chức cho 50 cán bộ công đoàn cơ sở. Bệnh viện trung tâm tỉnh vẫn giữ vững và phát triển tốt 02 lớp bồi dưỡng chuyên môn vào thứ tư hàng tuần cho 37 học viên lớp cao cấp và 35 học viên lớp sơ cấp y tế. Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã phát triển tốt hình thức học tập chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ đảng viên bằng cách tổ chức theo cán bộ phòng ban.
Sau khi nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất, các đảng ủy, chi ủy, đảng đoàn và thủ trưởng cơ quan đã tiến hành kiểm điểm cấp mình, ngành mình, trên cơ sở đó xác định rõ hơn về vị trí chức năng và nhiệm vụ của đảng bộ cơ sở cũng như của từng chi bộ ở các đơn vị. Do đó đã xây dựng và thực hiện tốt trách nhiệm, chế độ công tác, chế độ sinh hoạt và lề lối làm việc của từng cấp ủy, đảng đoàn và thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Làm rõ mối quan hệ và nhận rõ ranh giới giữa Đảng lãnh đạo, quần chúng làm chủ và chính quyền quản lý. Nhờ vậy mà trách nhiệm lãnh đạo của các đảng bộ, chi bộ ngày càng nâng cao.
Năm 1975, toàn Đảng bộ đã tiến hành phân loại đảng viên theo tinh thần Nghị quyết 23 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong số 2.395 đảng viên, số đảng viên tích cực có 1.943 đảng viên, đảng viên trung bình có 419 đảng viên và số đảng viên không dự phân loại là 33 đảng viên.
Việc cải tiến chế độ sinh hoạt cũng được làm thường xuyên. Trên tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nội dung sinh hoạt ở chi bộ, tổ đảng đã được cải tiến. Các cuộc họp đều có sự phân công chuẩn bị và thông báo trước nội dung đến mỗi cấp ủy viên, mỗi đảng viên đến họp. Các chi bộ bố trí lịch sinh hoạt hàng tháng vào ngày mồng 5. Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã duy trì chế độ sinh hoạt thường kỳ, đảm bảo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình và tự phê bình.
Công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, xử lý đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, kiên quyết đưa đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng được làm thường xuyên và nghiêm túc. Do vậy đã hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm khuyết điểm của cán bộ, đảng viên. Nhiều hiện tượng tiêu cực, tham ô, móc ngoặc, lợi dụng vật tư, tài sản Nhà nước đã được ngăn chặn kịp thời. Từ đầu năm 1975 đến tháng 1/1976, Đảng ủy đã xử lý 65 đảng viên phạm sai lầm khuyết điểm, trong đó: Khai trừ 11 đảng viên, lưu Đảng 17 đảng viên, cách chức 02 đảng viên, cảnh cáo 27 đảng viên và khiển trách 9 đảng viên.
Công tác phát triển đảng viên mới đã được chú ý, nhưng kết quả kết nạp đảng viên đạt thấp. Năm 1975 toàn Đảng bộ mới kết nạp được 11 đồng chí vào Đảng. Nhằm phát huy những thuận lợi và khắc phục khó khăn hạn chế, tháng 10/1975, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã mở Hội nghị sơ kết công tác phát triển đảng viên mới từ sau đợt phát triển đảng viên lớp Hồ Chí Minh, đồng thời có kế hoạch hướng dẫn các tổ chức cơ sở đảng đẩy mạnh công tác phát triển đảng.
Chấp hành Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất; từ ngày 13/2 đến ngày 28/2/1975, các đảng bộ cơ sở thuộc Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã lần lượt tổ chức đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên để thảo luận dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất và cử đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh.
Với ý thức trách nhiệm của mình các tổ chức cơ sở đảng và toàn thể đảng viên đã sôi nổi thảo luận và tham gia bổ sung nhiều ý kiến nhằm chứng minh và làm sáng tỏ thêm những nhận định đánh giá của Tỉnh ủy về thành tích ưu điểm, khuyết điểm trong 7 năm (từ khi hợp nhất tỉnh 1968) cũng như tham gia vào phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh. Qua nghiên cứu và thảo luận dự thảo báo cáo chính trị của tỉnh, nói chung cán bộ đảng viên ở cơ sở đã nâng cao thêm một bước nhận thức về tình hình và nhiệm vụ của tỉnh và qua đó xác định, nâng cao trách nhiệm của mình trước yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Sau khi hoàn thành việc tổ chức đại hội ở các tổ chức cơ sở đảng, Đại hội đại biểu Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ III (vòng 2) đã được tổ chức từ ngày 13 - 15/3/1975. Về dự Đại hội có 120 đại biểu, trong đó: Đại biểu chính thức 115 đồng chí, đại biểu dự khuyết 05 đồng chí. Đại hội thảo luận dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh gồm 18 đồng chí, trong đó có 02 đại biểu dự khuyết.
Dưới ánh sáng các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 và 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất, phấn đấu theo phương hướng và mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu Dân chính đảng tỉnh lần thứ III; năm 1976, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã nhận thức rõ vị trí và trách nhiệm của mình, không ngừng tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, ra sức động viên cán bộ đảng viên trong Đảng bộ và quần chúng trong các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh mọi hoạt động, thường xuyên coi trọng và làm tốt công tác củng cố và xây dựng Đảng, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Thi hành Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức bảo đảm thắng lợi cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng; từ ngày 20 - 25/10/1976, tất cả các đảng bộ cơ sở đã lần lượt tổ chức đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên để thảo luận dự thảo Điều lệ Đảng sửa đổi, thảo luận và quyết định những chủ trương biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thành thắng lợi kế hoạch sản xuất và chương trình công tác năm 1976, đồng thời bầu cử đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ cấp trên.
Được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ IV đã chính thức khai mạc trọng thể vào hồi 7 giờ 30 phút ngày 28/10/1976 với sự có mặt của 217 đồng chí trong tổng số 220 đồng chí đại biểu đại diện cho trên 2.700 đảng viên ở 45 cơ sở đảng về dự Đại hội.
Với đầy đủ ý thức trách nhiệm trước Đảng bộ cơ sở mình và trước Đại hội, các đồng chí đại biểu đã phát biểu tập trung vào những phần chính của bản dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi). Từ mục đích và yêu cầu đề ra cho Đại hội Đảng các cấp về việc thảo luận dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi), hầu hết các ý kiến phát biểu của các đồng chí đại biểu đã đi sâu phân tích làm rõ hơn cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về những vấn đề được bổ sung hoặc sửa đổi trong dự thảo Điều lệ Đảng. Từ đó nâng cao nhận thức trong mỗi cán bộ, đảng viên về mục đích, tính chất của Đảng, về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, về nhiệm vụ quyền hạn và tiêu chuẩn đảng viên trong giai đoạn mới của cách mạng.
Trên cơ sở làm rõ căn cứ lý luận và thực tiễn của những vấn đề được nêu lên trong bản dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi), nhiều đại biểu đã nêu lên nhiều vấn đề đề nghị với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xem xét trong việc tham luận và bổ sung vào bản dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi).
Đại hội đi sâu phân tích những mặt đạt được và những vấn đề còn hạn chế trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ, trên cơ sở đó đề ra một số nhiệm vụ công tác cụ thể:
- Tiếp tục làm tốt công tác tổ chức xây dựng đảng, tập trung vào những việc chính sau: Tiếp tục hoàn thành và phát huy thắng lợi đợt giáo dục chính trị tiến hành tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ; chuẩn bị làm tốt việc tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 1976; tiếp tục làm tốt việc cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt; tiếp tục làm tốt công tác quản lý đảng viên; tiếp tục giải quyết tốt những mặt tiêu cực trong cán bộ đảng viên; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức quần chúng1.
Đại hội đã tiến hành bầu cử đại biểu đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ II gồm 22 đồng chí.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ IV, trong các năm (1977 - 1978) công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh tiếp tục được đẩy mạnh và kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các thông tri của Trung ương Đảng, nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng. Song, trong bối cảnh tình hình kinh tế đất nước và của địa phương đang gặp khó khăn và có chiều hướng sút kém; cơ chế quản lý bao cấp ngày càng bộc lộ rõ sự hạn chế và không còn thích ứng với điều kiện mới của cách mạng; mặt khác nó không kích thích năng suất lao động và tinh thần làm việc của mọi người; lương thực và hàng tiêu dùng khan hiếm không đủ phân phối theo định lượng tem phiếu; đời sống của cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân gặp khó khăn. Trong khi đó, từ năm 1977 cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam diễn ra ác liệt; từ năm 1979 chiến tranh Biên giới phía Bắc nổ ra ..., những vấn đề trên đã tác động lớn đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, công nhân viên và ảnh hưởng đến sự lãnh đạo về công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ.
Mặc dù có ảnh hưởng do những khó khăn khách quan và chủ quan, nhưng dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, các nghị quyết Hội nghị lần thứ II, lần thứ III, lần thứ IV của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV, Nghị quyết của Tỉnh ủy, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ IV, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên của Đảng bộ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn trong cuộc sống, bảo đảm các mặt công tác. Đảng bộ tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng; nhiều tổ chức cơ sở đảng đã làm chuyển biến tư tưởng đảng viên.
Ngày 20/02/1978, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 14 về hệ thống chỉ đạo và một số vấn đề về tổ chức, chức trách của đảng bộ cơ quan. Thực hiện quyết định của Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Hưng ban hành Nghị quyết số 25 về việc chuyển giao cơ sở đảng về địa phương cơ quan đang đóng trụ sở quản lý theo lãnh thổ và giải thể một số cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh.
Sau khi có Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh đã nghiên cứu, thảo luận, đề ra kế hoạch từng bước thực hiện Quyết định số 14 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Từ tháng 4/1978, dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh tiến hành công tác tuyên truyền, giải thích cho các cấp ủy cơ sở và đảng viên thông suốt và chuyển tổ chức về Thị ủy Hải Dương; tập trung rà soát, bổ sung viết sơ yếu lý lịch (mẫu 1) làm thủ tục đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy tách, nhập một số đảng bộ cơ sở; chuyển chính thức cho các đảng viên đến kỳ hạn mà các cơ sở đề nghị; xét kỷ luật một số đảng viên theo tinh thần thực hiện Chỉ thị 192. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, công việc bàn giao được tiến hành từ ngày 17/4/1978, sau tạm dừng 2 tuần để làm công tác thu, đổi tiền, rồi tiếp tục tiến hành bàn giao và cho đến ngày 01/6/1978 công việc bàn giao kết thúc. Như vậy, đến tháng 6/1978 Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh không còn tồn tại. Trên 2.000 đảng viên sinh hoạt ở 44 cơ sở Đảng được bàn giao về sinh hoạt ở Đảng bộ Thị xã Hải Dương và một số đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, nâng số đảng viên của Đảng bộ Thị xã Hải Dương lên 8.305 đảng viên. Việc bàn giao các cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh về Đảng bộ Thị xã Hải Dương được tiến hành nhanh gọn do có sự chỉ đạo, giúp đỡ của Ban tổ chức Tỉnh ủy và Đảng ủy các Khối cùng các đảng bộ, chi bộ cơ sở đã có thời gian chuẩn bị đầy đủ về báo cáo chính trị, các hồ sơ, biên bản bàn giao.
Cùng thời gian từ tháng 4/1978, một số đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh được Tỉnh ủy điều động nhận công tác ở những cơ quan đơn vị khác, nhưng chủ yếu về Thị ủy Hải Dương. Quá trình Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh thực hiện Quyết định số 14 của Ban Bí thư Trung ương và Nghị quyết số 25 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng ủy còn làm thủ tục cho một số đồng chí nhận công tác ở tỉnh ngoài.
Như vậy, qua 14 năm tồn tại (T5/1964 đến T6/1978), tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng về cơ bản Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình và có những đóng góp to lớn trong công tác xây dựng Đảng của tỉnh Đảng bộ.
Các chi, đảng bộ của cơ quan Dân chính đảng chuyển về sinh hoạt ở Thị ủy Hải Dương trong bối cảnh Thị ủy chỉ quản lý về công tác đảng, không lãnh đạo toàn diện; do vậy, trong mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo về công tác chuyên môn, công tác xây dựng Đảng ở các chi, đảng bộ thuộc Đảng ủy Dân chính đảng tỉnh trước đây có những khó khăn nhất định, nhất là khi phải giải quyết những tồn tại vướng mắc, những vấn đề nảy sinh trong nội bộ, công tác chuyên môn ở các cơ quan, đơn vị thời gian trước đó. Đặc biệt là trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục có khó khăn, nhiều vấn đề nảy sinh ở các cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh trước đây, Thị ủy khó có thể đi sâu giải quyết (Thị ủy có trên 160 đầu mối). Mặt khác, Thị ủy còn phải tập trung giải quyết nhiều vấn đề ở cơ sở xã, phường và những cơ sở trực thuộc Thị ủy, nên việc tái lập Đảng bộ Khối trực thuộc Tỉnh ủy đã được đặt ra.
Ngày 08/11/1982, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 12 về hệ thống chỉ đạo các đảng bộ cơ quan; thực hiện Quyết định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, căn cứ vào tình hình đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở đảng thuộc các cơ quan; để phù hợp với yêu cầu của công tác chỉ đạo trong tình hình mới, ngày 25/7/1983 Tỉnh ủy ra quyết định về hệ thống chỉ đạo các đảng bộ cơ quan tỉnh:
(a) Đảng ủy Khối Dân chính đảng gồm 34 Đảng ủy cơ quan.
(b) Đảng ủy Khối Kinh tế gồm 26 Đảng ủy cơ quan.
Các đảng ủy cơ quan tỉnh trước đây thuộc Thị ủy Hải Dương và 02 Đảng ủy: Văn phòng Tỉnh ủy, Văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh trước đây trực thuộc Tỉnh ủy đều được rút về thuộc 2 Đảng ủy Khối. Những đảng bộ khác như xí nghiệp, công ty, công trường, bệnh viện, trường học...vẫn để ở các huyện ủy, thị ủy như hiện nay.
- Chỉ đạo các cơ quan trực thuộc làm công tác xây dựng Đảng bao gồm cả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao chất lượng đảng viên, củng cố phát triển đảng, kiện toàn đảng ủy, chi ủy, nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ, đảng bộ...
- Phối hợp với các ban của Đảng trong việc chỉ đạo các đảng bộ cơ quan trong Khối thực hiện chức năng, kiểm tra công tác lãnh đạo thực hiện và động viên các tổ chức của Đảng, đoàn thể quần chúng phấn đấu thực hiện kế hoạch công tác của cơ quan (theo quy định ở Điều 36 của Điều lệ Đảng); tăng cường mối quan hệ giữa đảng viên và quần chúng; chăm lo tổ chức tốt đời sống trong cơ quan.
- Kiểm tra đôn đốc các tổ chức đảng trực thuộc thực hiện những nhiệm vụ của địa phương nơi cơ quan đóng theo sự chỉ đạo và phối hợp với cấp ủy địa phương.
Đảng ủy Khối được sử dụng quyền cấp trên của tổ chức đảng cơ sở trong việc xét duyệt kết nạp, thi hành kỷ luật đảng viên, hướng dẫn việc thực hiện chức năng của các đảng bộ cơ sở.
Các tổ chức quần chúng vẫn đặt dưới sự chỉ đạo theo hệ thống địa phương như hiện tại.
Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Dân chính đảng tỉnh gồm 13 đồng chí, đồng chí Lê Ngọc Văn làm Bí thư, đồng chí Phạm Văn Tuyên làm Phó Bí thư.
Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Kinh tế do đồng chí Lê Quý Đôn, Tỉnh ủy viên, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Thanh làm Phó Bí thư.
Đảng ủy Khối Kinh tế làm nhiệm vụ lãnh đạo chính trị tư tưởng và công tác xây dựng Đảng các cơ sở ở ban, ngành của tỉnh, còn các công ty, xí nghiệp, cửa hàng và toàn thể quần chúng lại do Thị ủy Hải Dương chỉ đạo. Do đó, chức năng của các cơ sở chỉ làm tham mưu cho Tỉnh ủy về mặt quản lý kinh tế chứ không làm nhiệm vụ trực tiếp sản xuất kinh doanh, trừ một số công ty và một số ngành. Các cấp ủy từ chi ủy đến đảng ủy cơ sở và Đảng ủy Khối hầu hết là kiêm nhiệm.
Việc tái lập các đảng ủy khối là yêu cầu cần thiết về sự lãnh đạo, quản lý công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan, ban, ngành chuyên môn của tỉnh nhằm phát huy vai trò tham mưu, tính tiền phong gương mẫu, phẩm chất đạo đức và năng lực nghiệp vụ chuyên môn của đảng viên giúp Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng bộ.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, từ quý III năm 1983 các đảng ủy khối chính thức bước vào hoạt động. Các chi, đảng bộ đã đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, động viên cán bộ đảng viên, công nhân viên thực hiện công tác chuyên môn, lãnh đạo cơ quan, tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên chăm lo đời sống vật chất cũng như tinh thần cho cán bộ, công nhân viên, đoàn viên trong đơn vị.
Trong các năm 1983 - 1984 các đảng ủy khối phối hợp với các ban của Đảng, các ngành trong khối chỉ đạo các cấp ủy cơ quan, đơn vị đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ IV tới cán bộ, đảng viên và công nhân viên chức cơ quan, đơn vị nhằm đẩy mạnh sản xuất, tăng cường công tác phân phối lưu thông, đấu tranh chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội những năm 1983 - 1985.
Đồng thời các đảng bộ khối tiếp tục củng cố, ổn định tổ chức và chuẩn bị tích cực cho Đại hội của Đảng bộ; dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy các đảng ủy khối đã tiến hành Đại hội.
Đại hội Đảng bộ Khối Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 3/1984. Đại hội đã bầu 11 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ khối Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng khoá I; đồng chí Lê Ngọc Văn được bầu làm Bí thư, đồng chí Phạm Quý Tuyên được bầu làm Phó Bí thư.
Đại hội Đảng bộ Khối Kinh tế tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 4/1984. Đại hội đã bầu 10 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ. Đồng chí Phạm Văn Thọ được bầu làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Thanh được bầu làm Phó Bí thư.
Trong những năm 1983 - 1985, tình hình kinh tế xã hội của nước ta nói chung và tỉnh Hải Hưng nói riêng đang gặp nhiều khó khăn, vật tư hàng hoá khan hiếm, giá cả biến động, lạm phát tăng cao, thiên tai liên tiếp xảy ra đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, tư tưởng của cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, đơn vị. Đảng ủy Khối đã chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền, động viên cán bộ viên chức cơ quan, đơn vị khắc phục khó khăn, triển khai thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn trong năm làm động lực thúc đẩy phong trào. Đảng ủy cơ sở Ban Tuyên huấn và Ban Khoa giáo Tỉnh ủy phối hợp trong công tác tuyên truyền và chỉ đạo việc triển khai thực hiện chủ trương cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị tư tưởng, văn hoá, xã hội, thông tin, báo, đài nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn; củng cố hệ thống y tế từ tỉnh xuống xã; đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ hàng đầu của các đảng ủy khối. Trong các năm 1984 - 1985 các đảng ủy khối đã tổ chức quán triệt cho cán bộ, đảng viên học tập Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy như Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 (khoá V) về công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện; Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 8 (khoá V) về Giá - Lương - Tiền và sau đó là đợt đổi tiền ngày 14/9/1985; Nghị quyết của Tỉnh ủy về tiếp tục cuộc vận động xây dựng nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, đấu tranh chống mê tín dị đoan, chống văn hoá phản động đồi trụy; Nghị quyết về công tác nắm tiền, nắm hàng, làm chủ thị trường; Nghị quyết về dân số và kế hoạch hoá gia đình; cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch; Nghị quyết về đảm bảo định lượng phân phối các mặt hàng chủ yếu bằng tem phiếu cho cán bộ, công nhân viên...
Quá trình lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng, các đảng ủy khối đã bám sát vào nhiệm vụ chính trị của Đảng, của Đảng bộ tỉnh nhằm xác định cho các cấp ủy đảng trong Đảng bộ phát huy vai trò lãnh đạo chi, đảng bộ, đây là vấn đề chủ yếu trong công tác lãnh đạo ở cơ quan, đơn vị. Các đảng ủy khối tiếp tục cử những cán bộ, đảng viên theo học chương trình lý luận chính trị trung cấp tại chức của tỉnh và cử cán bộ trong quy hoạch đi học lý luận chính trị tập trung tại trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Ngoài ra, hầu hết cán bộ, đảng viên học lý luận tại chức chương trình sơ cấp, lý luận phổ thông. Đẩy mạnh công tác kiểm tra và phát triển đảng viên mới.
Mặc dù bị ảnh hưởng của việc điều chỉnh Giá - Lương - Tiền (T9/1985) làm cho đời sống của cán bộ, công nhân viên chức trong Đảng bộ gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, nhưng các đảng ủy khối đã lãnh đạo các chi, đảng bộ động viên cán bộ, đảng viên, công nhân viên vượt qua khó khăn bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Các cấp ủy đảng và cơ quan đã tạo mọi điều kiện để Công đoàn cơ sở, Công đoàn bộ phận tổ chức cho cán bộ, đoàn viên công đoàn làm kinh tế. Hầu hết các gia đình cán bộ, công nhân viên các cơ quan đều chăn nuôi lợn, gà công nghiệp, trồng rau xanh, làm gia công bóc lạc xuất khẩu...góp phần giải quyết một phần khó khăn của gia đình. Đảng viên của Đảng bộ từ những đồng chí giữ chức vụ cao của tỉnh, của các ban ngành, đoàn thể đến các đồng chí cán bộ quần chúng trong cơ quan, đơn vị đều phải hoàn thành nhiệm vụ trên cương vị công tác được giao, vừa tích cực tham gia chăm lo công tác đời sống.
Đi đôi với việc ổn định đời sống cán bộ, công nhân viên cơ quan, đơn vị, các đảng ủy khối còn chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng động viên và tổ chức phong trào quần chúng chống địch phá hoại và chống tiêu cực, gắn chặt hoạt động kinh tế với bảo vệ kinh tế. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực nhằm triệt tiêu một trong những điều kiện địch có thể lợi dụng phá hoại, chủ yếu trên các mặt: Phòng, chống tham ô, trộm cắp, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa bằng cách tham mưu giúp Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh chỉ đạo việc sắp xếp cải tạo tiểu thương và quản lý thị trường, lập lại trật tự trên mặt trận phân phối lưu thông. Các đảng bộ khối còn kiên quyết khắc phục tiêu cực nội bộ bằng biện pháp thường xuyên bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, củng cố tổ chức cơ sở đảng và bộ máy chính quyền, hệ thống quản lý kinh tế ở cơ quan, đơn vị..., qua đó đã góp phần quan trọng củng cố lòng tin, ổn định trật tự xã hội trong tỉnh.
Những thành tựu và tiến bộ đạt được trong công tác xây dựng Đảng của các đảng ủy khối là yếu tố cơ bản, tạo tiền đề và khả năng thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. Đó cũng là cơ sở để các đảng ủy khối bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, mở đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986).
Chương V
ĐẢNG BỘ CÁC CƠ QUAN TỈNH TRONG THỜI KỲ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 1996)
Căn cứ Nghị quyết 08-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xuất phát từ tình hình thực tế ở địa phương, ngày 11/9/1985 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Hưng ra Quyết định số 02-QĐ/TU về việc hợp nhất Đảng bộ Khối Kinh tế với Đảng bộ Khối Dân chính đảng thành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh. Đồng thời chỉ định Ban Chấp hành lâm thời do đồng chí Lê Ngọc Văn, nguyên là Bí thư Đảng ủy Khối Dân chính đảng làm Bí thư; đồng chí Phạm Quý Tuyên, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Khối Dân chính đảng làm Phó Bí thư Thường trực.
Đảng bộ Các cơ quan tỉnh khi mới hợp nhất có 29 đảng bộ và 30 chi bộ trực thuộc. Toàn Đảng bộ có 261 chi bộ, 286 tổ đảng, với 2.559 đảng viên, trong đó có 386 đảng viên nữ công tác và sinh hoạt ở 59 sở, ban, ngành, đoàn thể, công ty trong tỉnh. Trong số 2.559 đảng viên có nhiều đồng chí là cán bộ chủ chốt ở cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể tỉnh.
Sự hợp nhất hai Đảng bộ thành 01 Đảng bộ càng tăng cường sức mạnh cho Đảng bộ Các cơ quan tỉnh. Song sự chuyển giao, hợp nhất này đã gây ra sự xáo trộn nhất định về công tác tổ chức và tác động đến tư tưởng của một số cán bộ, đảng viên. Cho nên, việc đầu tiên của Đảng ủy là nhanh chóng ổn định tổ chức và tư tưởng, sớm đưa hoạt động của Đảng bộ đi vào nền nếp. Cơ quan Đảng ủy Các cơ quan tỉnh được biên chế 12 cán bộ chuyên trách (khi còn là Đảng bộ Khối chỉ có 06 cán bộ chuyên trách). Trong số 12 cán bộ chuyên trách được bố trí như sau: 01 Bí thư, 01 Phó Bí thư Thường trực, 02 cán bộ làm công tác tổ chức, 02 cán bộ làm công tác kiểm tra, 02 cán bộ làm công tác tuyên huấn, 01 cán bộ làm công tác văn phòng tổng hợp, 01 văn thư - kế toán, 01 lái xe, 01 tạp vụ.
Sau khi được sáp nhập, cán bộ chuyên trách của Đảng ủy đi vào hoạt động theo chức năng, giúp Ban Chấp hành đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, ổn định tổ chức ở các cơ sở đảng; hình thành các khối công tác như: Nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, lưu thông phân phối, văn hoá, giáo dục, nội chính, cơ quan làm công tác xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước, các trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ... Các cơ quan trên có chức năng làm nhiệm vụ tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh về công tác chuyên môn của từng đơn vị. Đồng thời có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn công tác chuyên môn cho phong trào chung của tỉnh.
Căn cứ Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, trong 02 ngày, 21- 24/9/1986, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất để kiểm điểm công tác xây dựng Đảng từ năm 1984 đến năm 1986, nhất là từ ngày sáp nhập đến tháng 9/1986 và đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng Đảng 3 năm (1986 - 1988). Nghị quyết Đại hội đã nhấn mạnh:
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Đại hội đề ra các biện pháp sau:
Phải thường xuyên nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tăng cường công tác lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, làm cho đảng viên quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng, đường lối chung và đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế và cơ chế quản lý mới...Cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, kiểm tra Đảng, tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng Đảng bộ "Trong sạch vững mạnh".
- Tăng cường lãnh đạo tổ chức Công đoàn ở Đảng ủy Các cơ quan tỉnh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và lực lượng tự vệ ở các cơ sở đảng. Trước hết phải luôn giáo dục ý thức giai cấp công nhân, lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa cho cán bộ, đoàn viên ở cơ quan, đơn vị; phân công cấp ủy phụ trách công đoàn, đoàn thanh niên và lực lượng tự vệ. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng công đoàn, đoàn thanh niên "vững mạnh", lực lượng tự vệ "quyết thắng", tích cực tham gia xây dựng Đảng, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.1
Đại hội đã bầu 15 đồng chí vào Ban Chấp hành (trong đó có 02 dự khuyết). Đồng chí Lê Ngọc Văn được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Phạm Quý Tuyên được bầu lại làm Phó Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh khoá I, nhiệm kỳ 1986 - 1989.
Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã phân tích đúng đắn nguyên nhân của tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội từ nhiều năm trước và đề ra đường lối đổi mới toàn diện để từng bước thoát khỏi tình trạng đó. Đại hội khẳng định: Trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế "Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo nguyên tắc tập trung dân chủ"1. Đây là những nhân tố quyết định thắng lợi 3 chương trình kinh tế lớn: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, từ năm 1987 Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã tổ chức quán triệt cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ học tập 05 chuyên đề Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI do Ban Tuyên huấn Trung ương soạn thảo; phổ biến 03 chương trình kinh tế của tỉnh về sản xuất lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; làm theo và hưởng ứng chuyên mục "Những việc cần làm ngay" của đồng chí Nguyễn Văn Linh.
Sau khi học tập 05 chuyên đề của Đại hội VI về: Chặng đường đầu tiên, đổi mới tư duy, đổi mới cơ chế, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, các vấn đề chính sách xã hội, đảng viên và quần chúng trong Đảng bộ đã nhận thức rõ đường lối đổi mới của Đảng, nhất trí với sự nghiệp đổi mới, đoàn kết và ra sức học tập, nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo, trình độ chuyên môn để thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới, mà trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng.
Thực hiện Quyết định số 09-QĐ/TU và Kế hoạch số 06-KH/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiến hành cuộc vận động "Nâng cao chất lượng đảng viên và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng", ngày 13/3/1987 Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh quyết định chọn Đảng bộ Trường Cao đẳng sư phạm Hải Hưng làm điểm cuộc vận động, thành lập tổ công tác gồm 05 đồng chí, do đồng chí Lê Ngọc Văn, Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh làm Tổ trưởng. Đồng thời xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện làm điểm.
Sau khi làm điểm cuộc vận động "Nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng" ở Đảng bộ Trường Cao đẳng Sư phạm, Đảng ủy đã rút ra được một số kinh nghiệm thiết thực, cụ thể cho việc triển khai cuộc vận động của Đảng bộ. Từ giữa tháng 6/1987, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã triển khai cuộc vận động tới tất cả các đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đến cuối năm 1987 cuộc vận động "Nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng" ở Đảng bộ Các cơ quan tỉnh đã hoàn thành theo yêu cầu Kế hoạch đề ra. Trên tinh thần đổi mới, các chi, đảng bộ cơ sở đã nghiêm khắc tự kiểm điểm và đề ra những biện pháp khắc phục yếu kém để nâng cao chất lượng đảng viên, sức chiến đấu của chi, đảng bộ mình, từng bước đưa công tác đảng đi vào nền nếp, hoạt động có hiệu quả.
Như vậy, sau 01 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (T10/1986), công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có những chuyển biến tích cực mà trước hết là trong nhận thức. Đây là thời kỳ cả nước chuyển hướng nhiệm vụ chiến lược từ sản xuất, chiến đấu, xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sang thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế quản lý kinh doanh XHCN do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra.
Mặc dù năm 1987 tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, nhất là đời sống, nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, sự giúp đỡ của các ban Đảng, cùng với tinh thần đoàn kết, nhất trí của toàn Đảng bộ, ý thức trách nhiệm, năng động sáng tạo của cán bộ, đảng viên nên các đơn vị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị. Năm 1987, công tác xây dựng Đảng có bước chuyển biến và thể hiện được vai trò lãnh đạo của Đảng ở Các cơ quan tỉnh bằng kết quả phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong năm: Có 18/61 chi, đảng bộ cơ sở được Tỉnh ủy tặng Cờ, Bằng khen. Toàn Đảng bộ có 261 chi bộ: Vững mạnh 197, khá 61, yếu kém 3. Những đảng bộ, chi bộ được Tỉnh ủy biểu dương khen thưởng trong công tác xây dựng Đảng đều được Ủy ban Nhân dân tỉnh và các bộ, ngành cấp trên khen thưởng về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng ủy, đảng viên các chi, đảng bộ cơ sở tham gia học tập Nghị quyết đạt tỷ lệ trên 95%. Đặc biệt là học Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VI), Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Nhiều chi, đảng bộ cơ sở có tỷ lệ đảng viên học tập cao, có đơn vị đạt tới 99%. Trong học tập thảo luận đã đóng góp nhiều ý kiến có chất lượng, góp phần giải quyết những vấn đề tồn tại từ lâu trong Đảng bộ.
Do được quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy, nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên và quần chúng về công tác đổi mới, về nhiệm vụ chính trị được nâng lên rõ rệt. Ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của cá nhân được đề cao, làm việc có chất lượng và hiệu quả, lòng tin của mọi người đối với Đảng, với chế độ được củng cố, cách nhìn nhận đánh giá tình hình kinh tế - xã hội đã khách quan và đúng đắn hơn, lòng tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng được củng cố. Không có biểu hiện bi quan, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương và của Tỉnh ủy. Từ sự chuyển biến tích cực về nhận thức tư tưởng, thông qua việc giáo dục của Đảng bộ, cán bộ, đảng viên và quần chúng thuộc các Khối trong các cơ quan tỉnh đều quyết tâm khắc phục khó khăn, tham mưu giúp cấp ủy đề ra những chủ trương, biện pháp đúng đắn kịp thời, sát với tình hình đơn vị, khai thác triệt để mọi tiềm năng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ và công cuộc đổi mới của Đảng.
Cùng với nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng, Đảng ủy còn làm tốt công tác tổ chức cán bộ. Đây là khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện nhiệm vụ của Đảng ủy Các cơ quan tỉnh. Thời gian này, đồng chí Lê Ngọc Văn, Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh nghỉ chờ hưu. Được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngày 11/3/1988 Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh họp bầu đồng chí Phạm Quý Tuyên, Phó Bí thư Đảng ủy làm Bí thư; đồng chí Lê Văn Đắc, ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tổ chức Đảng ủy làm Phó Bí thư, đồng chí Trần Xuân Đài, ủy viên BCH Đảng bộ làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra.
Thông qua học tập Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội”; dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thường trực Tỉnh ủy, Đảng ủy đã chỉ đạo 07 trọng điểm: Đài phát thanh tỉnh, Báo Hải Hưng, Sở Tài chính, Ngân hàng tỉnh, Công ty Vật tư kỹ thuật, Công ty Vật tư lâm sản, Viện kiểm sát tỉnh. Từ kinh nghiệm làm điểm ở 07 cơ sở đảng nói trên, Đảng ủy chỉ đạo toàn Đảng bộ thực hiện cuộc vận động.
Căn cứ vào kế hoạch hướng dẫn số 12-KHHD/TU của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, các đơn vị cơ sở tiến hành rà soát, phân loại đội ngũ cán bộ, đảng viên theo 3 tiêu chuẩn: Phẩm chất đạo đức; tác phong công tác; năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Qua đánh giá phân loại, hầu hết cán bộ, đảng viên đều tuyệt đối trung thành với đường lối cách mạng của Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, kiên trì khắc phục khó khăn để làm tròn nhiệm vụ được giao.
Về công tác tổ chức: Thực hiện chủ trương tinh giản biên chế của cấp trên, một số cơ quan của tỉnh được sáp nhập. Để phù hợp với bộ máy trong hệ thống chính trị của tỉnh, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã sáp nhập một số cơ sở đảng, giảm đầu mối cơ sở từ 61 chi, đảng bộ xuống còn 56 chi, đảng bộ cơ sở (giảm 01 đảng bộ, 04 chi bộ). Các đơn vị hợp nhất và sáp nhập đã sớm ổn định tổ chức, đi vào hoạt động có nền nếp. Đồng thời Đảng ủy bổ sung, kiện toàn 08 ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, 04 Chi ủy chi bộ.
Về công tác bồi dưỡng phát triển đảng viên trong 6 tháng đầu năm: Đảng ủy đã mở một lớp học đối tượng đảng cho cho 84 quần chúng ưu tú của 37 đơn vị, thời gian trong 8 ngày. Kết quả, 6 tháng cuối năm toàn Đảng bộ đã kết nạp được 31 đảng viên mới.
Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW, Quyết định số 53- QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và kế hoạch hướng dẫn số 06-KHHD/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tiến hành đại hội cơ sở và cấp trên trực tiếp cơ sở; từ cuối năm 1988 đến ngày 10/01/1989, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã chỉ đạo tiến hành xong đại hội ở 27 đảng bộ, 25 chi bộ cơ sở. Đại hội Đảng ở 52 cơ sở đã bầu 337 cấp ủy viên, trong đó 19 đồng chí bí thư đảng ủy là trưởng phòng, 11 bí thư là phó giám đốc, 02 bí thư là trưởng ngành.
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ủy đã coi trọng công tác kiểm tra của các tổ chức đảng. Ngay từ đầu năm 1988, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã hướng dẫn Ủy ban Kiểm tra 2 cấp trong Đảng bộ bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, gắn việc kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng theo định kỳ vào các đợt kiểm tra 6 tháng đầu năm và cuối năm. Tổng kết năm 1988 Đảng bộ đã có: 2.402 đảng viên chấp hành tốt, đạt tỷ lệ trên 90%, còn 75 đảng viên chấp hành chưa tốt (trong số này có 23 đảng viên vi phạm sai lầm khuyết điểm). Ủy ban Kiểm tra đảng ủy và cơ sở đã giúp cấp ủy xử lý 21 vụ, trong đó khiển trách 17 đồng chí, cảnh cáo 02 đồng chí, cách chức 01 đồng chí và khai trừ 01 đồng chí.
Trong 6 tháng đầu năm 1988, Đảng ủy đã tiếp nhận, giải quyết 15/15 đơn thư tố cáo, khiếu nại của đảng viên và quần chúng. Nội dung tố cáo phần lớn là những sai phạm xảy ra từ các năm trước thuộc về kinh tế, tài chính, lợi dụng chức quyền và tư lợi cá nhân, thiếu gương mẫu, thiếu tinh thần trách nhiệm để hư hao mất mát tài sản cá nhân, đơn vị, thiếu dân chủ, một số cán bộ lãnh đạo trù dập ức hiếp đảng viên, quần chúng. Qua điều tra làm rõ, đã xử lý khiển trách 03 đồng chí và cảnh cáo 01 đồng chí trưởng, phó phòng thuộc Đảng bộ Trường Cao đẳng sư phạm Hải Hưng, khai trừ 01 đảng viên ở Đảng bộ Sở Y tế.
Kiểm tra việc thu nộp đảng phí ở 56 chi, đảng bộ cơ sở. Kết quả 2.476 đảng viên đều đóng đảng phí theo quy định. Tuy nhiên, còn một số đảng bộ cơ sở nộp lên Đảng ủy theo quý, thậm chí có đảng bộ 5 tháng mới nộp.
Năm 1988, tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới, trong nước và trong tỉnh có những diễn biến phức tạp, các nước trong hệ thống XHCN đang lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã định ra đường lối đổi mới, nhưng chưa có một cơ chế quản lý kinh tế thích hợp. Năm 1988. hàng hoá không những thiếu thốn, mà giá cả cũng bấp bênh, giá lương thực tăng đột biến, đời sống cán bộ, công nhân viên và nhân dân hết sức khó khăn, đặc biệt việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VI) về Giá - Lương - Tiền không đạt kết quả như mong đợi đã làm cho bộ phận khá lớn cán bộ, đảng viên và nhân dân lo lắng, băn khoăn.
Tình hình trên đã tác động đến tư tưởng cán bộ, đảng viên, quần chúng trong Đảng bộ. Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo để khắc phục những biểu hiện yếu kém, những suy nghĩ lệch lạc, tiếp tục ổn định tư tưởng, tổ chức để đưa Đảng bộ tiến lên những bước mới, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh và công cuộc đổi mới của Đảng.
Căn cứ vào các Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã cụ thể hoá thành chương trình hành động, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng bộ thực hiện nghiêm túc có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng cấp trên.
Đảng ủy đã xác định: Giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ hàng đầu, thường xuyên. Để làm tốt công tác này, mỗi cấp ủy phải hiểu rõ tâm tư, tình cảm của quần chúng, có kế hoạch về công tác chính trị tư tưởng; phải biết tổ chức, bồi dưỡng, sử dụng các cơ quan, các cán bộ, đảng viên làm công tác tư tưởng, xây dựng họ trở thành các chiến sỹ có sức chiến đấu cao trên mặt trận tư tưởng.
Ban Thường vụ Đảng ủy đã phối hợp với lãnh đạo cơ quan chuyên môn ở cơ sở theo sự hướng dẫn của cơ quan chức năng tổ chức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng học tập Nghị quyết 04-NQ/TW, Chỉ thị 16-CT/TW của Bộ Chính trị về "Cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội". Đây là đợt học tập có sự chỉ đạo chặt chẽ, có hệ thống từ trong Đảng đến các tổ chức đoàn thể quần chúng với 03 nội dung rất quan trọng và cấp thiết trong tình hình hiện nay. Đồng thời tiếp tục quán triệt đường lối đổi mới của Đại hội VI và 03 chương trình kinh tế lớn của Tỉnh ủy, quán triệt Nghị quyết 05-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI), Chỉ thị 21-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiến hành tự phê và phê bình trong Đảng, cũng như Nghị quyết 26-NQ/TU đối với công tác bảo vệ an toàn xã hội, an ninh quốc gia; Nghị quyết 27-NQ/TU của Tỉnh ủy về một số biện pháp cấp bách trong công tác xây dựng Đảng vv...
Đảng ủy đã tích cực lãnh đạo công tác xây dựng các đoàn thể, vận động quần chúng thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nét nổi bật trong công tác đoàn thể là Đảng ủy đã lãnh đạo tổ chức thành công đại hội công đoàn các cơ sở, xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người đoàn viên công đoàn trong đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong cơ quan, đơn vị và ngoài xã hội, nêu cao ý thức lao động, năng suất hiệu quả trong công tác. Mặt khác, Đảng ủy đã có phương hướng cho các chi, đảng bộ cơ sở chỉ đạo củng cố tổ chức các đoàn thể quần chúng. Do vậy, hoạt động của đoàn thể quần chúng trong Đảng bộ có sự chuyển biến tích cực. Các cuộc vận động ủng hộ chiến sĩ biên giới, hải đảo, ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, mua công trái xây dựng Tổ quốc v.v... đều được các chi, đảng bộ cơ sở lãnh đạo trực tiếp, đạt kết quả cao.
Năm 1988 là năm có rất nhiều khó khăn; với cơ chế kinh tế bung ra trên nhiều lĩnh vực, các cơ sở đảng trong mỗi đơn vị, cơ quan đã chỉ đạo việc tổ chức sản xuất, dịch vụ, chăn nuôi và tham gia trên lĩnh vực lưu thông... nhằm tăng thu nhập, giảm bớt khó khăn, cải thiện một bước đời sống cán bộ, công nhân viên. Đây là việc làm hết sức mới mẻ, không đúng với chức năng, nhiệm vụ, nên chỉ một số cơ sở thực hiện có hiệu quả, còn phần lớn là làm ăn thua lỗ, thất thoát tài sản của Nhà nước và cơ quan, ảnh hưởng đến công tác chuyên môn.
Trước tình hình đó, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các cơ sở đảng chấn chỉnh lại những việc làm không đúng chức năng, nhiệm vụ; xử lý cán bộ, đảng viên có sai phạm, sớm ổn định tình hình, chuẩn bị tiến tới Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ II.
Trong 2 ngày 23 - 24/01/1989, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ II, nhiệm kỳ 1989 - 1990 tại thị xã Hải Dương; tham dự có trên 100 đại biểu đại diện cho 56 chi, đảng bộ cơ sở trong toàn Đảng bộ. Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần này có các đồng chí thay mặt cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo Đại hội.
Sau khi đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ I (T9/1986), Đại hội đã tập trung thảo luận và thống nhất phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu trong công tác chuyên môn của Đảng bộ trong 02 năm 1989 - 1990 là:
- Phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, kế hoạch của Nhà nước. Làm tốt công tác tham mưu cho Tỉnh ủy thực hiện có hiệu quả 3 chương trình kinh tế của tỉnh về sản xuất lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Tích cực tham gia đóng góp vào công cuộc đổi mới của Đảng, nhất là đổi mới về tư tưởng, tổ chức, phong cách làm việc, làm việc có năng suất, chất lượng cao, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, không ngừng nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng. Củng cố cơ sở, giải quyết cơ sở yếu kém, nâng cao chất lượng đảng viên, thu hẹp diện đảng viên trung bình, tiếp tục phát huy quyền làm chủ, chống các biểu hiện tiêu cực trong Đảng và cơ quan Nhà nước. Nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật cho đảng viên, quần chúng, chống phát ngôn vô trách nhiệm, bảo vệ người trung thực; phấn đấu 100% đảng viên đủ tư cách; chăm lo phát triển đảng viên.
- Củng cố các đoàn thể quần chúng, đưa hoạt động của các đoàn thể vào nề nếp, có chất lượng. Chỉ đạo làm tốt công tác đời sống, tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân viên yên tâm công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ”1.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh khoá II gồm 19 đồng chí. Ngày 24/01/1989, Ban Chấp hành Đảng bộ họp phiên đầu tiên bầu Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư và phân công nhiệm vụ cho các ủy viên Ban Chấp hành. Đồng chí Nguyễn Côn được bầu làm Bí thư, đồng chí Lê Văn Đắc được bầu làm Phó Bí thư; các đồng chí: Vũ Thị Ké, Trần Xuân Đài, Nguyễn Văn Hình được bầu vào Ban Thường vụ. Hội nghị bầu Ủy ban Kiểm tra gồm 05 đồng chí: Đồng chí Trần Xuân Đài, Ủy viên Ban Thường vụ làm Chủ nhiệm; đồng chí Vũ Thị Ké, Ủy viên Ban Thường vụ làm Phó Chủ nhiệm; các đồng chí: Nguyễn Trọng Xô, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Bí thư Đảng ủy Bưu điện tỉnh; đồng chí Lê Sỹ Quản, cán bộ UBKT Tỉnh ủy Hải Hưng và đồng chí Tăng Xuân Lâm, Phó Chánh thanh tra tỉnh làm Ủy viên.
Sau Đại hội, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã lãnh đạo các chi, đảng bộ cơ sở triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ II. Mặc dù sau hơn 02 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tình hình kinh tế - xã hội nước ta bước đầu có khởi sắc, song nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn. Sản xuất khó khăn, sản phẩm khó tiêu thụ, nhiều cơ sở lỗ vốn có nguy cơ phá sản, lao động thiếu việc làm...Việc thực hiện giảm biên chế gặp khó khăn, không bố trí được việc làm cho số lao động dôi ra đã dẫn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng hoang mang lo lắng, giảm sút lòng tin vào thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng, làm việc cầm chừng, nghe ngóng về sự tách, nhập đơn vị...an ninh trật tự chưa được đảm bảo, nhiều vụ việc tiêu cực chậm giải quyết, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cơ quan tỉnh lần thứ II, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã tăng cường công tác chính trị tư tưởng, lãnh đạo việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng ủy lãnh đạo các chi, đảng bộ cơ sở triển khai học tập Nghị quyết 06-NQ/TW, Nghị quyết 07-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khoá VI, Quyết định 240-QĐ/TTg của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cũng như các nghị quyết 7, 27 và Nghị quyết 10, 11 của Tỉnh ủy. Đặc biệt, Đảng ủy đã lãnh đạo thực hiện Chỉ thị 59 của Ban Bí thư Trung ương Đảng "Làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng". Kết quả phân loại đảng viên trong Đảng bộ theo Chỉ thị 59 của Ban Bí thư: Có 2.334/2.476 đảng viên đủ tư cách, chiếm 94,2%; 136/2.476 đảng viên vi phạm tư cách chiếm 5,5% (trong đó có 30/337 đảng ủy viên, chi ủy viên, chiếm 9,11%; trưởng, phó ban 20/119 đồng chí chiếm 10% và 61/514 đồng chí cấp tương đương chiếm 11,81%); 06 đảng viên chiếm 0,3% phải đưa ra khỏi Đảng (khai trừ 04, xoá tên 02).
Gắn với việc triển khai quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy, Đảng ủy cùng với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy mở các đợt tuyên truyền thời sự trong nước và quốc tế; chỉ đạo các cơ sở làm tốt công tác phổ biến thông tin, nói chuyện thời sự, nội dung chủ yếu tập trung bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ nhau làm kinh tế, giải quyết việc làm, tháo gỡ những vướng mắc ở cơ sở, những băn khoăn thiếu tin tưởng vào kết quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, vào đường lối phát triển kinh tế v.v...; đồng thời thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với người nghỉ chế độ.
Để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, Đảng ủy tổ chức mở lớp học bồi dưỡng lý luận chính trị Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước cho hàng trăm cán bộ, đảng viên, riêng trong 6 tháng đầu năm 1990 tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho 164 đồng chí cấp ủy phụ trách tuyên giáo, tổ chức, kiểm tra của các chi, đảng bộ cơ sở. Qua lớp tập huấn đã giúp cho các đồng chí cấp ủy viên nắm được nhiệm vụ chuyên môn về công tác xây dựng Đảng.
Đối với công tác kiểm tra trong 02 năm (1989 - 1990), Đảng ủy chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra cùng cấp hướng dẫn đảng viên xây dựng chương trình tự kiểm tra, sửa chữa điểm yếu của từng đảng viên. Tiếp tục thực hiện đợt kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 59 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Qua kiểm tra 03 đảng bộ: Sở Lao động, Thương binh & Xã hội, Liên hiệp Xí nghiệp vật tư tỉnh, Trường Cao đẳng Sư phạm Hải Hưng và 03 chi bộ: Chi bộ Chi nhánh điện Chí Linh thuộc Đảng bộ Sở Điện Lực, Chi bộ Điện báo điện thoại thuộc Đảng bộ Bưu điện tỉnh, Chi bộ Xí nghiệp in thuộc Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy. Nhìn chung các chi, đảng bộ được kiểm tra đã quán triệt đầy đủ Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị, vận dụng vào công tác xây dựng Đảng ở cơ sở bước đầu đạt kết quả. Đảng ủy cũng tiến hành kiểm tra việc xây dựng và thực hiện quy chế làm việc 34 ở 04 tổ chức cơ sở Đảng: Đảng bộ Cục Thống kê, Đảng bộ Sở Công nghiệp, Đảng bộ Liên đoàn Lao động tỉnh và Chi bộ Tỉnh đoàn thanh niên; cả 04 cơ sở đều xây dựng và thực hiện có hiệu quả quy chế làm việc theo Quy chế số 34 của Trung ương.
Đảng ủy kiểm tra đánh giá chất lượng xây dựng đảng bộ "Trong sạch vững mạnh" ở 9 đảng bộ: Trường Đảng tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Giao thông vận tải, Tổng Công ty Xuất nhập khẩu - Đầu tư, Sở Tài chính - Vật giá, Trường Cao đẳng Sư phạm Hải Hưng, Ủy ban Kế hoạch tỉnh, Sở Thương nghiệp và Chi bộ Văn phòng Đảng bộ khối Cơ quan tỉnh. Qua kiểm tra có 08 cơ sở đạt 05 tiêu chuẩn, còn Đảng bộ Sở Thương nghiệp chưa đạt Đảng bộ "Trong sạch vững mạnh".
Sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giảm biên chế là việc làm hết sức khó khăn và phức tạp. Để làm tốt nhiệm vụ này, các cấp ủy đảng đã cùng với lãnh đạo chính quyền, đoàn thể thảo luận công khai, dân chủ sắp xếp các phòng, ban trong cơ quan theo cơ chế mới (tinh giảm, gọn nhẹ, nâng cao hiệu lực công tác). Đảng ủy đã làm tốt công tác lãnh đạo tư tưởng cho đảng viên, quần chúng và chỉ đạo việc thực hiện giải quyết các chế độ, chính sách thoả đáng cho những người nghỉ việc. Các cơ quan, đơn vị đã hoàn thành việc sắp xếp tổ chức bộ máy theo tinh thần tinh giảm, nổi bật là các đơn vị: Toà án, Viện Kiểm sát, Bưu điện, Ngân hàng, Sở Lao động, Thương binh & Xã hội, Ủy ban Khoa học - Kỹ thuật, Liên đoàn các xí nghiệp vật tư, Công ty Vật tư - Kỹ thuật, Trường Hành chính, Trường Cao đẳng Sư phạm, Sở Giáo dục& Đào tạo.
Thực hiện Thông tri số 01-TT/TW của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về “Hướng dẫn sửa đổi, bổ sung một số điểm về quản lý hồ sơ đảng viên, thẻ đảng và” và Thông tư 05-TT/TW hướng dẫn bổ sung một số điểm cụ thể về “Tặng Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng cho đảng viên lâu năm”, Ban Tổ chức Đảng ủy đã triển khai xuống các cơ sở đảng, đồng thời tổ chức kiểm tra đối khớp số lượng đảng viên và bàn giao xong sơ yếu lý lịch cho các cơ sở quản lý; tổ chức lễ trao tặng huy hiệu 40 năm tuổi Đảng cho 55 đồng chí đảng viên lâu năm và phát thẻ cho 239 đảng viên.
Công tác phát triển đảng viên mới được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo tích cực. Nhiệm kỳ 1989 - 1990, Đảng ủy đã mở 04 lớp bồi dưỡng đối tượng đảng cho 292 quần chúng ưu tú, đã kết nạp được 134 đảng viên mới, tăng 13,25% so với nhiệm kỳ trước, trong đó 2/3 có trình độ Đại học.
Qua 02 năm (1989 - 1990) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ II, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, công tác xây dựng Đảng trong Đảng bộ Khối cơ quan tỉnh có bước phát triển mới. Đảng ủy đã làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo ra sự nhất quán về quan điểm chính trị trong Đảng bộ. Đảng viên và quần chúng đã vững tin vào công cuộc đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp cách mạng XHCN. Đảng ủy đã khơi dậy, phát huy được tiềm năng, năng lực sẵn có trong cán bộ, đảng viên, công nhân viên ở từng cơ sở, khắc phục tư tưởng ỷ lại, từng bước đẩy lùi những yếu kém, tiêu cực trong xã hội, ổn định đời sống cho cán bộ, công nhân viên.
Để phát huy kết quả, khắc phục những mặt hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, cuối năm 1989 Đảng ủy tiến hành khảo sát 03 đảng bộ: Sở Giáo dục & Đào tạo, Sở Giao thông vận tải và Sở Điện lực để đánh giá thực chất cơ sở đảng cũng như đội ngũ đảng viên. Đầu năm 1990, thực hiện Chỉ thị 24-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tiến hành kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng kết hợp với chỉnh đốn làm trong sạch đội ngũ đảng viên, Đảng ủy tiến hành làm điểm ở Đảng bộ Bưu điện, Đảng bộ Cục Thống kê để rút kinh nghiệm triển khai trong toàn Đảng bộ.
Sau một năm thực hiện Chỉ thị 24-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, có 27/52 chi, đảng bộ trong Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh (trong đó 19 chi, đảng bộ được Tỉnh ủy tặng Cờ thi đua); 2.177 đảng viên đủ tư cách chiếm 94%, 139 đảng viên không đủ tư cách chiếm 9%.
Trong nhiệm vụ làm trong sạch Đảng, Đảng ủy rất coi trọng đấu tranh chống tham nhũng theo quyết định 240- QĐ/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về chống tham nhũng, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Hơn 2 năm Đảng ủy tập trung cao độ vào việc chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng theo tinh thần Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 08-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Chỉ thị 24-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; toàn Đảng bộ đã xử lý kỷ luật 167 đảng viên chiếm 7,2%, trong đó đưa ra khỏi đảng 34 người, tăng gấp 2,2 lần so với năm 1987 - 1988. Số đảng viên bị xử lý kỷ luật có: 27 đồng chí là đảng ủy viên, chi ủy viên; 11 trưởng, phó phòng, 129 đảng viên (trong số này có 08 đảng viên thuộc diện Tỉnh ủy quản lý); cảnh cáo 01 chi bộ cơ sở, 01 chi bộ trong đảng bộ cơ sở. Nội dung vi phạm chủ yếu là thiếu tinh thần trách nhiệm, buông lỏng quản lý kinh tế, tham ô, chiếm dụng vốn, kinh doanh thua lỗ gây thất thoát lớn về tài sản, lô đề, vi phạm dự trữ quốc gia (A34), vi phạm sinh đẻ có kế hoạch.
Những yếu kém trên trước hết là do công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và quần chúng; vai trò đầu tầu gương mẫu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên kể cả những đảng viên giữ cương vị lãnh đạo. Một số khác thì ngại học tập, lười nghiên cứu, ít tham gia ý kiến vào nghị quyết chi bộ. Thậm chí có người không giữ được phẩm chất, đạo đức, tư cách đảng viên, đã vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước dẫn đến bị xử lý kỷ luật. Một số còn coi nhẹ sinh hoạt tổ đảng, chi bộ, xa rời quần chúng, mất dân chủ, quan liêu hách dịch, ăn chơi sa đoạ, trong khi đó đấu tranh phê bình yếu kém, nội bộ mất đoàn kết, thiếu thống nhất. Việc thực hiện quy chế số 34 của Trung ương ở nhiều cơ sở chưa tốt, chỉ đạo công tác vận động quần chúng thiếu chặt chẽ.
Đây là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên, đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng công tác của đơn vị và uy tín của Đảng bộ.
Năm 1991, trong bối cảnh Nhà nước Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô Viết và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng đã ảnh hưởng rất lớn đến cục diện phong trào cách mạng trên thế giới. Các thế lực phản động ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội, gây mất lòng tin, mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, giữa Đảng với quần chúng, thực hiện âm mưu "Diễn biến hoà bình" chống phá cách mạng nước ta. Trước tình hình khó khăn, phức tạp đó đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng vốn có lòng tin sâu sắc ở Liên Xô nay trở nên băn khoăn lo lắng, thậm chí có người hoang mang, dao động, thiếu lòng tin vào chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, tháng 6/1991 đã đánh giá những thành tựu ban đầu sau 5 năm (1987 - 1991) thực hiện đường lối đổi mới của Đảng do Đại hội VI đề ra; phân tích tình hình thế giới, trong nước và định ra những quan điểm tiếp tục đổi mới, vạch cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ đất nước.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI 1, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, công nhân viên để quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, làm thấu suốt các quan điểm tiếp tục đổi mới, tinh thần độc lập tự chủ của Đảng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, khắc phục tư tưởng bi quan dao động trước những diễn biến phức tạp ở Liên Xô, các nước Đông Âu và trên thế giới, cảnh giác với những âm mưu phá hoại của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội. Đồng thời Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh tích cực chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ lần thứ III và chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở tiến hành đại hội 2 vòng theo Chỉ thị số 59, thông tri số 01 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Kế hoạch số 20 của Tỉnh ủy. Thời gian này, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có 31 đảng bộ cơ sở, 23 chi bộ trực thuộc và trên 3.000 đảng viên, trong đó có 32 đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh sinh hoạt trong Đảng bộ; dưới sự chỉ đạo tập trung, chặt chẽ của cấp ủy, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh đã tiến hành Đại hội theo 2 vòng. Vòng 1 từ dưới lên, vòng 2 từ trên xuống đảm bảo đúng với yêu cầu của Ban Bí thư Trung ương đề ra.
Đại hội Đảng bộ vòng 1: Tập trung thảo luận tham gia ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng và bầu cử đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI. Việc tổ chức góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội VII của Đảng được tiến hành làm 2 đợt ở chi bộ và trong quần chúng. Đây là đợt sinh hoạt chính trị được tổ chức rộng rãi, nghiêm túc từ trong Đảng ra đến quần chúng. Kết quả qua 2 đợt đã có 2.472 lượt ý kiến của đảng viên, 836 lượt ý kiến của quần chúng tham gia. Nhiều ý kiến đóng góp thể hiện sự nghiên cứu kỹ các dự thảo văn kiện, có liên hệ đối chiếu với tình hình thực tiễn, không khí thảo luận cởi mở, thẳng thắn, tập trung trí tuệ. Qua nghiên cứu thảo luận phần lớn đảng viên, quần chúng nhận thức được nâng lên một bước về tư tưởng, quan điểm đổi mới của Đảng, tăng thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội cơ sở vòng 1 đã bầu 119 đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ III. Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh vòng 1 đã bầu 10 đại biểu (trong đó có 1 đại biểu dự khuyết) đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI.
Sau thành công của Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VI, vòng 2 (T8/1991). Trong 03 ngày 24 - 26/9/1991, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ III. Tham dự Đại hội có 116 đại biểu, đại diện cho trên 3.000 đảng viên trong Đảng bộ. Đại hội đã dành thời gian nghiên cứu, quán triệt các văn kiện và Nghị quyết Đại hội VII của Đảng. Qua nghiên cứu, các đại biểu có sự nhất trí cao với các văn kiện đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng và định hướng xã hội chủ nghĩa, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. Đại hội cũng tập trung phân tích, thảo luận các văn kiện, quán triệt sâu sắc thêm những quan điểm tư tưởng lớn đã được Đại hội VII của Đảng thông qua. Đại hội đi sâu thảo luận Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng khoá II và đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ 1991-1995 của Đảng bộ. Tại Đại hội có 14 ý kiến tham luận, biểu thị sự nhất trí cao với bản Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ và phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu, đồng thời cũng đề xuất một số biện pháp cụ thể để thực hiện các mục tiêu của Đảng bộ.
Đại hội đã quyết định số lượng Ban Chấp hành Đảng bộ khóa III là 17 Ủy viên. Trong số 18 đại biểu được đề cử, Đại hội đã bầu 1 vòng đủ số lượng 17 đồng chí tham gia Ban Chấp hành, trong đó có 10 đồng chí tái cử, 07 đồng chí mới tham gia. Số lượng Ban Chấp hành khóa này giảm 02 đồng chí so với khóa trước, song chất lượng Ban Chấp hành được nâng lên, nhất là về trình độ văn hóa và chuyên môn. Ngày 27/9/1991, Ban Chấp hành Đảng bộ khóa III họp phiên đầu tiên bầu 5 đồng chí vào Ban Thường vụ là: Hoàng Hữu Vân, Trần Xuân Đài, Lê Quang Dũng, Vũ Thị Ké, Phạm Bá Tiếm. Đồng chí Hoàng Hữu Vân, Tỉnh ủy viên được bầu làm Bí thư, đồng chí Trần Xuân Đài được bầu làm Phó Bí thư Thường trực. Hội nghị bầu 5 đồng chí vào Ủy ban Kiểm tra; đồng chí Phạm Bá Tiếm, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy làm Chủ nhiệm; đồng chí Nguyễn Văn Điệp, Ủy viên Ban Chấp hành làm Phó Chủ nhiệm; đồng chí Vũ Thị Ké, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Đảng ủy là Ủy viên; đồng chí Nguyễn Trọng Xô, Ủy viên Ban Chấp hành, Bí thư chuyên trách Đảng ủy Bưu điện tỉnh là Ủy viên; đồng chí Tăng Xuân Lâm, Phó Bí thư Chi bộ, Phó Chánh Thanh tra tỉnh là Ủy viên. Tháng 4/1995, đồng chí Vũ Thị Ké nghỉ hưu, đồng chí Phùng Văn Hưng, cán bộ Ban Tổ chức Tỉnh ủy được Tỉnh ủy phân công sang làm Trưởng ban Tổ chức Đảng ủy Các cơ quan tỉnh thay đồng chí Vũ Thị Ké.
Để Nghị quyết Đại hội thực sự đi vào cuộc sống, Đảng ủy đã tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên trong Đảng bộ. Đảng ủy đã xác định rõ vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh, nên đã tập trung quán triệt về những bài học kinh nghiệm và chặng đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những quan điểm và định hướng lớn về chính sách kinh tế - xã hội; về khoa học công nghệ, giáo dục văn hoá; hệ thống chính trị cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng; thành tựu và kinh nghiệm bước đầu về công cuộc đổi mới...
Đảng ủy tổ chức quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII), Nghị quyết số 12 của Tỉnh ủy "Tăng cường lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng" để làm sáng tỏ những nhận định đánh giá tình hình thế giới, trong nước của Đảng. Nhằm đưa thông tin xuống cơ sở theo thông báo số 20-TB/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã chỉ đạo mỗi chi, đảng bộ cơ sở phải có Báo Nhân dân, Báo Hải Dương và 1 Tạp chí xây dựng Đảng, 1 Tạp chí Cộng sản, 1 Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, bản tin nội bộ do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phát hành; củng cố lực lượng báo cáo viên cơ sở; phản ánh kịp thời đúng với tình hình thực tế của cơ sở lên Đảng bộ Các cơ quan tỉnh.
Việc tổ chức quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đã tăng cường tính giai cấp, tính tiền phong gương mẫu trong cán bộ, đảng viên của Đảng bộ, để khi thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, tham mưu cho Tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân tỉnh mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu suốt nguyên tắc, bảo đảm không chệch hướng xã hội chủ nghĩa, quán triệt tinh thần đổi mới, khắc phục sai lầm khuyết điểm. Đảng ủy đã lấy Nghị quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị giáo dục ý thức tự lực tự cường, phát huy nội lực của mỗi đơn vị, cơ quan nhằm xây dựng đơn vị, cơ quan vững mạnh; giáo dục về phẩm chất, đạo đức, lối sống lành mạnh cho cán bộ, đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng.
Về công tác xây dựng tổ chức đảng: Từ năm 1991 đến năm 1993, Đảng ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn vững mạnh, đây là nhiệm vụ trung tâm của công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Các cấp ủy đảng thường xuyên phối kết hợp chặt chẽ với thủ trưởng cơ quan tạo nên sức mạnh tổng hợp của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Các cơ sở đảng trong Đảng bộ đã tham mưu tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ của đơn vị, ngành theo chức năng, nhiệm vụ đã được phân công như: Các ngành kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp xây dựng đề án phát triển của ngành đến năm 2000, xây dựng cơ chế để các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng, đúng chính sách, hướng dẫn việc giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân theo tinh thần Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, và Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh ủy.
Các ngành thuộc khối văn hoá - xã hội: Giáo dục và Đào tạo, Y tế, Thể dục thể thao, Văn hoá - Nghệ thuật, Thông tin tuyên truyền... hoạt động tích cực nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt trong việc thực hiện cải cách giáo dục, phổ cập giáo dục tiểu học, xóa nạn mù chữ, xây dựng trường chuyên, lớp chọn, trung tâm tổng hợp kỹ thuật dạy nghề, hướng nghiệp được mở rộng, chất lượng dạy và học được nâng lên.
Các cơ sở đảng thuộc Khối Đoàn thể tỉnh triển khai có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương và của tỉnh về công tác mặt trận, công tác đoàn thể, chú trọng đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo củng cố các đoàn thể, các hội quần chúng, tập trung hướng vào những phong trào: "Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước", "Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế", "Phong trào V.A.C", "Câu lạc bộ khuyến nông", "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư", phong trào “Ông, bà, cha, mẹ mẫu mực, con trung hiếu, cháu thảo hiền", "Toàn dân làm công tác an ninh bảo vệ Tổ quốc"..., chăm lo lợi ích chính đáng cho đoàn viên, hội viên gắn với chương trình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng.
Mặt khác, Đảng ủy tập trung chỉ đạo giải quyết các vấn đề nổi cộm ở cơ sở. Ban Thường vụ Đảng ủy phối hợp với Ủy ban Kiểm tra, Ban Tổ chức Tỉnh ủy xin ý kiến chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy có chủ trương, biện pháp kịp thời giải quyết những tồn tại ở một số cơ quan, đơn vị, đảng viên sau khi thực hiện Chỉ thị 24-CT/TW năm 1990 và kế hoạch 04-KH/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy năm 1993, giải quyết dứt điểm các vụ việc, tạo không khí đoàn kết, phấn khởi để chỉ đạo tổ chức Đại hội cơ sở đạt kết quả.
Để làm tốt các nhiệm vụ xây dựng Đảng, năm 1992 Đảng ủy mở 4 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 210 đồng chí là đảng ủy viên, chi ủy viên cơ sở làm công tác tuyên giáo, tổ chức, kiểm tra và văn phòng cấp ủy. Nội dung truyền đạt theo chương trình biên soạn của cấp trên gắn với tình hình thực tế của Đảng bộ. Sau khi được bồi dưỡng nghiệp vụ, các đồng chí cấp ủy viên đã nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, tầm quan trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng, những thủ tục nguyên tắc kết nạp đảng, xử lý đảng viên...
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3-NQ/TW và Nghị quyết 08-NQ/TU của Tỉnh ủy về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, công tác phát triển đảng viên mới đã chuyển biến một bước quan trọng. Các cấp ủy đã xây dựng kế hoạch công tác phát triển đảng; các ban xây dựng đảng cùng văn phòng cấp ủy phối kết hợp chặt chẽ, chủ động làm tham mưu giúp cấp ủy có những biện pháp cụ thể cùng với cấp ủy cơ sở đẩy mạnh công tác phát triển đảng, nhất là đối với những cơ sở có nhiều quần chúng. Nhằm tạo nguồn, tạo chất cho công tác phát triển đảng, việc mở các lớp bồi dưỡng cho quần chúng ưu tú là đối tượng của Đảng được thực hiện thường xuyên. Từ 1991 đến 1993, Đảng ủy đã mở 3 lớp học đối tượng đảng cho 276 quần chúng để nâng cao nhận thức về Đảng, tạo điều kiện cho lớp trẻ tự giác, tích cực phấn đấu vào Đảng, nên số lượng kết nạp đảng viên mới mỗi năm một tăng: Năm 1991 Đảng bộ kết nạp được 37 đảng viên; năm 1992 kết nạp 45 đảng viên; năm 1993 tăng lên 80 đảng viên.
Đối với công tác kiểm tra Đảng, Ủy ban Kiểm tra đã tham mưu giúp Ban Thường vụ Đảng ủy ban hành quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra, phương hướng, nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng bộ 3 năm 1991 - 1993. Phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, các ban xây dựng Đảng của Đảng ủy tập trung giải quyết những việc nổi cộm có liên quan đến nhân sự đại hội ở Đảng bộ Sở Điện lực, Đảng bộ Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, Đảng bộ Cục Thống kê... Thực hiện Quyết định 114-QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ, 20 đơn vị cơ sở đã xây dựng chương trình chống tham nhũng và thành lập ban chống tham nhũng ở cơ sở.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban kiểm tra các cấp do Điều lệ Đảng quy định, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy và Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ sở đã xây dựng kế hoạch kiểm tra và đã kiểm tra được nhiều nội dung như: Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy kiểm tra đảng viên chấp hành được 102/513 đồng chí là cán bộ thuộc Đảng ủy quản lý, chiếm gần 20%; Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ sở kiểm tra được 231 đồng chí; các chi bộ tự kiểm tra gắn với kiểm điểm thực hiện Chỉ thị 100-CT/TW và Chỉ thị 14-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương đối với 100% đảng viên; kiểm tra tổ chức Đảng cấp dưới chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng 440 lượt, kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc tại 29 chi, đảng bộ cơ sở; kiểm tra việc thu, nộp, sử dụng đảng phí ở 38 chi, đảng bộ cơ sở.
Mặt khác Đảng ủy đã giải quyết kịp thời 15 đơn thư tố cáo đối với đảng viên. Qua việc giải quyết đơn thư tố cáo và kiểm tra đảng viên vi phạm, Đảng ủy đã xử lý 31 đảng viên bằng các hình thức: Khiển trách 07 đồng chí, cảnh cáo 16 đồng chí, cách chức 01 đồng chí, cho ra khỏi đảng và xoá tên trong danh sách đảng viên 07 đồng chí.
Công tác chống tham nhũng được thực hiện nghiêm túc, đã thu hồi cho ngân sách Nhà nước trên 400 triệu đồng, xử lý phạt hành chính trên 250 triệu đồng, truy thu tiền thuế ở các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân gần 10 triệu đồng. Đã xử lý 33 cán bộ, đảng viên, công nhân viên vi phạm, trong đó buộc thôi việc 01 trường hợp, hạ bậc lương 01 trường hợp, cảnh cáo 21 trường hợp và khiển trách 10 trường hợp, trong số 33 trường hợp bị xử lý có 10 đảng viên.
Mặc dù còn những tồn tại thiếu sót, song công tác xây dựng Đảng trong những năm (1991 - 1993) đã đạt được những thành tựu nhất định. Kết quả đó gắn liền với hoạt động của các cấp ủy và tinh thần nêu cao ý thức trách nhiệm của đảng viên vượt khó vươn lên, từng bước đổi mới nội dung và phương pháp công tác, thực hiện toàn diện các nhiệm vụ xây dựng Đảng, giải quyết tốt những mặt yếu kém, hướng vào thực hiện nhiệm vụ trung tâm là xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh. Kết quả phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên:
Trên cơ sở những thành tích về công tác xây dựng Đảng mà Đảng bộ đạt được sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ III (1991 - 1993); Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ (tháng 2/1994) đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu về công tác xây dựng Đảng đến hết nhiệm kỳ (1994 - 1995) đó là: Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác tư tưởng, trong đó tập trung xây dựng cho cán bộ, đảng viên có niềm tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng, mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Khắc phục những biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, tiếp tục phê phán bệnh giáo điều, bảo thủ, đồng thời đấu tranh chống các khuynh hướng xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa trong đổi mới. Mặt khác phải xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Nâng cao cảnh giác cách mạng, chống âm mưu diễn biến hoà bình, sự phá hoại của các thế lực thù địch.
Về xây dựng và củng cố tổ chức đảng: Nhiệm vụ trung tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ vững mạnh. Đổi mới công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên, làm tốt công tác kiểm tra Đảng và phát triển đảng viên mới.
Hội nghị đã đề ra một số chỉ tiêu phấn đấu trong 2 năm 1994 - 1995 là: Đảng viên đủ tư cách đạt từ 98% trở lên so với tổng số đảng viên trong Đảng bộ, trong đó đảng viên phát huy tác dụng (xuất sắc) đạt 70% trở lên. Số chi bộ, đảng bộ cơ sở phấn đấu đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh từ 60% trở lên, không có đơn vị yếu kém. Đảng ủy, chi ủy lãnh đạo trực tiếp các đoàn thể quần chúng cơ quan thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ theo Điều lệ của mỗi tổ chức. Phát huy quyền làm chủ của công nhân viên, tích cực phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng, hạ giá thành. Hăng hái thi đua thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước...
Hội nghị cũng khẳng định vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, coi đây là nhân tố quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ của Đảng bộ. Cho nên các đảng ủy, chi ủy phải xây dựng quy chế làm việc phù hợp với đặc điểm của mỗi cơ quan và hoạt động theo đúng quy chế. Trong lãnh đạo, chỉ đạo phải thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp công tác, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, sâu sát cơ sở, đôn đốc, kiểm tra việc hoàn thành nhiệm vụ. Trong sinh hoạt phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ lãnh đạo tập thể, kết hợp với trách nhiệm cá nhân. Phải thường xuyên kiểm điểm, rút kinh nghiệm đánh giá kết quả việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và mỗi cấp ủy viên để không ngừng nâng cao chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.
Sau hội nghị giữa nhiệm kỳ, Đảng ủy tập trung vào lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng đảng ở cơ quan sở, ban, ngành và đoàn thể tỉnh nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn được giao.
Trong 2 năm (1994 – 1995) công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ đã bám sát vào nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, thông qua tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên tham mưu đề xuất cơ chế chính sách, các giải pháp góp phần quan trọng vào thành tựu nổi bật trên các mặt kinh tế - xã hội của tỉnh, làm cho kinh tế hàng hoá phát triển với tốc độ nhanh, đồng thời chuyển sang sản xuất hàng hoá với những mô hình mới, cơ cấu mới. Bốn chương trình kinh tế - xã hội được triển khai và thực hiện có hiệu quả. Nhu cầu ăn, ở, đi lại, chữa bệnh, học hành, hưởng thụ văn hoá được đáp ứng tốt hơn; an ninh chính trị được giữ vững, lực lượng quốc phòng được tăng cường; nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng đem lại kết quả thiết thực.
Trong bối cảnh thế giới có những biến động lớn về tình hình chính trị, nhất là cuộc khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, các thế lực thù địch thường xuyên chống phá cách mạng nước ta, thực hiện âm mưu "Diễn biến hoà bình" bằng những thủ đoạn thâm độc; Đảng ủy Các cơ quan tỉnh luôn xác định nhiệm vụ lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, nên ngoài việc quán triệt các nghị quyết của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy một cách sâu rộng để bồi dưỡng nhận thức đúng đắn cho cán bộ, đảng viên, cấp ủy thường xuyên nắm bắt diễn biến tư tưởng của đảng viên, công nhân viên; tăng cường thực hiện chương trình đưa thông tin xuống cơ sở, giáo dục truyền thống nhân các ngày lễ lớn của dân tộc v.v...
Do làm tốt công tác lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị đã góp phần quan trọng vào việc tiếp tục đổi mới tư duy, định hướng tư tưởng, bồi dưỡng nhận thức đúng đắn cho cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu rõ hơn những yêu cầu đòi hỏi của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, cũng như vận mệnh dân tộc gắn liền với vận mệnh của Đảng. Từ đó khẳng định: Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực, trí tuệ, sức chiến đấu, mà trước hết đổi mới nâng cao nội dung, phương pháp lãnh đạo, lấy việc phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Giữ vững ổn định chính trị, nâng cao niềm tin của đảng viên và quần chúng vào đường lối đổi mới của Đảng, khắc phục cơ bản tâm trạng lo lắng, băn khoăn thiếu niềm tin trước những biến động của thế giới, những khó khăn trong nước, khó khăn của địa phương ở một bộ phận đảng viên, công nhân viên chức.
Trong xây dựng củng cố tổ chức đảng, các cấp ủy thực hiện tốt chức năng là hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở cơ quan, đơn vị; lãnh đạo thực hiện công tác chuyên môn, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh. Vì vậy trong 5 năm (1991 - 1995) nhiều cơ quan, đơn vị được Nhà nước tặng thưởng Huân chương, được Bộ, Tổng cục, Ủy ban Nhân dân tỉnh tặng Cờ thi đua, Bằng khen cho tập thể và cá nhân đã có thành tích xuất sắc.
Mặt khác, Đảng ủy luôn quan tâm giải quyết những mặt yếu kém giúp cơ sở, đảng viên khắc phục, phấn đấu vươn lên, tiến hành xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, khắc phục cơ bản tình trạng mất đoàn kết nội bộ. Do vậy từ năm 1992 đến 1995 Đảng bộ không còn cơ sở yếu kém từng mặt, số cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh 2 năm (1994 – 1995) tăng hơn các năm từ (1991 – 1993). Nếu năm 1991 có 45,6% cơ sở đạt trong sạch vững mạnh, thì năm 1994 là 68%, năm 1995 tăng lên 86,9% cơ sở đạt trong sạch vững mạnh, trong đó có 12 cơ sở được Ban Thường vụ Tỉnh ủy biểu dương, tặng Cờ.
Về đảng viên: Tuyệt đại đa số đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, đã phát huy được tính tiền phong gương mẫu, nâng cao tinh thần trách nhiệm phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Số đảng viên đủ tư cách chiếm 98,75% trong tổng số 2.300 đảng viên, tăng 1,75%, trong đó đảng viên phát huy tác dụng tốt là 71%, tăng 1% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ III đề ra.
Trong phong trào thi đua hoàn thành nhiệm vụ đã xuất hiện nhiều quần chúng tích cực. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Đảng bộ giữa nhiệm kỳ, 2 năm (1994 - 1995) Đảng ủy đã mở 3 lớp học đối tượng đảng cho 343 quần chúng và đã kết nạp được 255 đảng viên mới. So với năm 1991 - 1993, số quần chúng được đi học tăng 63 người, đảng viên được kết nạp tăng 93 đồng chí.
Công tác kiểm tra Đảng: Cấp ủy các cấp trong Đảng bộ đã tiến hành kiểm tra được nhiều cuộc theo chương trình đề ra như: Kiểm tra về nề nếp sinh hoạt, nội dung sinh hoạt, ý thức chấp hành nghị quyết, chỉ thị, giữ gìn phẩm chất tư cách đảng viên. Ủy ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đã thực hiện toàn diện các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định và nhiệm vụ cấp ủy giao: Đã kiểm tra 4.792 lượt đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, trong đó 374 lượt là cấp ủy viên các cấp; kiểm tra 671 lượt tổ chức đảng chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; kiểm tra 33 lượt cấp ủy cơ sở chấp hành quy chế làm việc; kiểm tra 676 lượt tổ chức đảng cơ sở về thu nộp đảng phí; kiểm tra thi hành kỷ luật ở 13 cơ sở; giải quyết xong 31 đơn thư tố cáo, 01 đơn thư khiếu nại đối với đảng viên. Qua kiểm tra và giải quyết đơn thư tố cáo, các tổ chức đảng trong Đảng bộ đã xử lý khiển trách 16 đồng chí, cảnh cáo 13 đồng chí, cách chức 01 đồng chí, khai trừ ra khỏi đảng 02 đảng viên, xóa tên trong danh sách đảng viên và cho ra khỏi Đảng 12 người.
Công tác lãnh đạo các đoàn thể quần chúng được cấp ủy các cấp trong Đảng bộ thường xuyên quan tâm. Đảng bộ lãnh đạo các cơ sở đảng chỉ đạo thành công đại hội Công đoàn ở các cơ sở; chỉ đạo các công đoàn cơ sở lấy ý kiến đoàn viên tham gia xây dụng Hiến pháp năm 1992, tham gia xây dựng Bộ Luật dân sự và tổ chức cho quần chúng tham gia công tác xây dựng Đảng v.v...
Hằng năm, Đảng ủy Các cơ quan tỉnh và các cấp ủy đảng cơ sở đều xây dựng chương trình công tác, chỉ đạo cụ thể đối với các đoàn thể quần chúng, định hướng và thúc đẩy đổi mới phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn và Đoàn thanh niên. Do vậy hoạt động của Công đoàn ở các cơ quan, đơn vị có nhiều tiến bộ. Tổ chức Công đoàn đã thực hiện tốt chức năng tham gia quản lý Nhà nước, động viên cán bộ, đoàn viên công đoàn nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ban Chấp hành Công đoàn nhiều cơ sở đã tích cực cùng với lãnh đạo cơ quan chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên công đoàn, trên cơ sở các chế độ quy định với mục tiêu phấn đấu nhằm xây dựng Công đoàn vững mạnh.
Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh được thành lập từ ngày 16/4/1994, có 2 biên chế do Tỉnh đoàn quản lý. Ngày đầu thành lập, Đoàn Các cơ quan tỉnh mới có 14 cơ sở đoàn trực thuộc, với trên 700 đoàn viên. Đến tháng 12/1995 đã có 29 cơ sở đoàn với trên 1.000 đoàn viên. Các tổ chức cơ sở đoàn trong các cơ quan tỉnh hoạt động sôi nổi, luôn là lực lượng xung kích trên các lĩnh vực công tác; tích cực tham gia phong trào "Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước", phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác. Nhiệt tình tham gia phong trào học tập văn hoá, ngoại ngữ, tin học, thể thao, an ninh, quốc phòng, xây dựng nếp sống văn hoá, con người mới xã hội chủ nghĩa. Tổ chức Đoàn thanh niên có nhiều cố gắng giáo dục, rèn luyện đoàn viên, giới thiệu nhiều đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp, các hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên đều hướng vào xây dựng cơ sở đoàn vững mạnh. Năm 1994 có 10/14 bằng 61% cơ sở đoàn đạt vững mạnh; năm 1995 có 13/29 bằng 44,82% cơ sở đoàn vững mạnh. Đoàn Thanh niên Các cơ quan tỉnh được xếp thứ nhất trong 16 đơn vị huyện, thị đoàn và đoàn khối trực thuộc Tỉnh đoàn.
Công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ 1991-1995 tuy có nhiều tiến bộ, song vẫn còn những mặt yếu kém tồn tại:
Trong sinh hoạt Đảng có một số chi bộ nội dung sinh hoạt giản đơn, hình thức; tự phê bình và phê bình chưa được quan tâm, nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được phát huy đầy đủ; việc xây dựng và thực hiện quy chế của một số cấp ủy còn lúng túng, thiếu cụ thể; ý thức tham gia sinh hoạt Đảng, đoàn thể một số đảng viên chưa gương mẫu.
Ban Chấp hành Đảng bộ đã nghiêm túc kiểm điểm những mặt yếu kém, khuyết điểm và khẳng định đây là trách nhiệm của Ban Chấp hành Đảng bộ và của cấp ủy cơ sở. Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm, đề ra các biện pháp khắc phục để xây dựng Đảng bộ vững mạnh, làm tốt nhiệm vụ tham mưu giúp Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Thực hiện Chỉ thị số 51-CT/TW, ngày 09/3/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Kế hoạch số 13-KH/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tổ chức đại hội đảng cơ sở, trong 02 ngày 12-14/4/1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ IV được tiến hành.
Đại hội đánh giá nhiệm kỳ công tác 1991 - 1995; quyết định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1996 - 2000; thảo luận góp ý vào dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và góp ý thảo luận tham gia vào dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá VI trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Hưng lần thứ VII; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh khoá IV, nhiệm kỳ 1996 - 2000 và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII.
Đại hội đã bầu 19 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh khoá IV. Ngày 14/4/1996, Ban Chấp hành Đảng bộ khóa IV họp phiên đầu tiên bầu 05 đồng chí vào Ban Thường vụ Đảng ủy gồm: Hoàng Hữu Vân, Trần Xuân Đài, Phùng Văn Hưng, Lê Quang Dũng và Phạm Bá Tiếm. Đồng chí Hoàng Hữu Vân, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy được bầu làm Bí thư, đồng chí Trần Xuân Đài được bầu làm Phó Bí thư Thường trực. Tháng 5/1996, Ban Thường vụ Tỉnh ủy phân công đồng chí Hoàng Hữu Vân sang làm Bí thư Thị ủy Hải Dương; đồng chí Doãn Thế Cường - Tỉnh ủy viên, Phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh thay đồng chí Hoàng Hữu Vân. Đến khi chia tách tỉnh thì đồng chí Doãn Thế Cường, Trần Xuân Đài chuyển về Hưng Yên.
Chương VI
ĐẢNG BỘ CÁC CƠ QUAN TỈNH HẢI DƯƠNG ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI GẮN VỚI
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1997 - 2010)
Theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX, ngày 20/11/1996 tỉnh Hải Dương được tái lập. Căn cứ Điều 13, chương II Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định nguyên tắc và cơ cấu tổ chức của Đảng; Chỉ thị số 03-CT/TW ngày, 12/11/1996 của Bộ Chính trị về việc lãnh đạo thực hiện chia tách một số đơn vị hành chính cấp tỉnh và Hướng dẫn số 01-HD/BTCTW, ngày 19/11/1996 của Ban Tổ chức Trung ương về công tác tổ chức cán bộ; ngày 18/01/1997, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Quyết định số 22-QĐ/TU thành lập Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương và chỉ định 13 đồng chí vào Ban Chấp hành lâm thời, 03 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy gồm: Đồng chí Phùng Văn Hưng, Phạm Bá Tiếm và Lê Quang Dũng. Tỉnh ủy phân công đồng chí Phùng Văn Hưng làm Phó Bí thư Thường trực phụ trách chung (vì chưa có Bí thư).
Để tiến tới Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương, Ban Chấp hành lâm thời tích cực chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội và tổ chức cho cán bộ, đảng viên của đảng bộ nghiên cứu dự thảo báo cáo, trực tiếp tham gia góp ý tại chi bộ, tổng hợp trình Đại hội cơ sở sau đó gửi về Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời để nghiên cứu, chỉnh sửa dự thảo báo cáo chính trị trình tại Đại hội. Qua thống kê có 64/64 chi, đảng bộ cơ sở tổ chức thảo luận, đạt 100%; 53/64 chi, đảng bộ cơ sở góp ý kiến tham gia, đạt 82,8%, với 135 ý kiến, trong đó có 75 ý kiến tham gia vào dự thảo báo cáo đánh giá, 60 ý kiến tham gia vào phương hướng nhiệm vụ (1998 - 2000).
Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương lần thứ IV diễn ra vào 2 ngày 06-07/11/1997. Đại hội đã đánh giá kết quả đạt được từ sau Đại hội lần trước (T4/1996) đến cuối năm 1997 về công tác xây dựng Đảng trên các mặt: Lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị; xây dựng và củng cố tổ chức đảng; công tác kiểm tra Đảng; lãnh đạo quần chúng. Đồng thời cũng nêu rõ những nguyên nhân thiếu sót, tồn tại. Trên cơ sở đánh giá những ưu, khuyết điểm trong 1 năm chia tách và phân tích tình hình đặc điểm của Đảng bộ, yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ cách mạng mới, Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu cơ bản của Đảng bộ là: "Phải bám sát mục tiêu Đại hội VII Đảng bộ tỉnh đề ra, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong Đảng bộ nêu cao tinh thần trách nhiệm, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; chủ động sáng tạo để làm tốt chức năng tham mưu cho lãnh đạo tỉnh, nhất là thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng đảm bảo tính đúng đắn và hiệu quả; chống âm mưu diễn biến hoà bình, chống tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội1.
Đại hội bầu 18 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh khoá IV. Ban Chấp hành Đảng bộ khoá IV họp phiên đầu tiên bầu 4 đồng chí vào Ban Thường vụ là: Phùng Văn Hưng, Lê Quang Dũng, Phạm Bá Tiếm, Nguyễn Văn Điệp; đồng chí Phùng Văn Hưng được bầu làm Phó Bí thư Thường trực phụ trách chung; bầu 5 đồng chí vào Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy: Đồng chí Phạm Bá Tiếm, Ủy viên Ban Thường vụ được bầu làm Chủ nhiệm; đồng chí Vũ Thị Chuyền, Ủy viên Ban Chấp hành được bầu làm Phó Chủ nhiệm. Đến cuối tháng 12/1997, Tỉnh uỷ phân công đồng chí Hoàng Bình, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Kinh tế Tỉnh uỷ kiêm Bí thư Đảng uỷ Các cơ quan tỉnh. Đến tháng 8/1998, Tỉnh uỷ phân công đồng chí Hoàng Hữu Vân, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Tổ chức về làm Bí thư, đồng chí Hoàng Bình được Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều động sang làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh.
Sau Đại hội, các cấp ủy đảng đã bám sát vào định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ công tác tư tưởng theo Nghị quyết số 09 của Bộ Chính trị, để tiến hành công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng trong Đảng bộ. Đảng ủy đã tổ chức quán triệt Nghị quyết Đại hội VIII, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, Pháp lệnh cán bộ công chức, Pháp lệnh chống tham nhũng, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 12/5/1999 của Bộ Chính trị về "Những điều đảng viên không được làm", Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XII, các nghị quyết của Tỉnh ủy nhằm trang bị cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên nhận thức đúng đắn về quan điểm, đường lối, củng cố niềm tin vào sự nghiệp đổi mới của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, có lối sống lành mạnh, chống quan liêu, sách nhiễu, phiền hà, tiêu cực trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn.
Các cấp ủy, chi bộ trong Đảng bộ chủ động nắm diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, quần chúng; uốn nắn những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng chính trị, phát ngôn tùy tiện, giải quyết kịp thời những kiến nghị chính đáng của đảng viên, quần chúng. Kịp thời kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, hướng dẫn nội dung tuyên truyền thời sự, chính sách, cung cấp bản tin nội bộ, Báo Nhân dân, báo Hải Dương, Tạp chí cộng sản...đến chi bộ. Tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc, các hoạt động văn hoá - văn nghệ - thể dục thể thao; thi tìm hiểu về truyền thống dân tộc, quê hương, đất nước. Thông qua đó để giáo dục cho đảng viên, quần chúng hiểu sâu sắc hơn về truyền thống vẻ vang của dân tộc, của Đảng, giáo dục tinh thần tự lực, tự cường, khơi dậy đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" tạo lên khí thế thi đua sôi nổi, sâu rộng.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng và chất lượng đảng viên, Đảng ủy tiếp tục thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết 08-NQ/TU của Tỉnh ủy. Sau khi được tái lập, chỉ trong một thời gian ngắn Đảng ủy đã kiện toàn hệ thống chi, đảng bộ cơ sở phù hợp với bộ máy các cơ quan Nhà nước cấp tỉnh. Đảng bộ có tổng số 65 chi, đảng bộ cơ sở (gồm 38 đảng bộ, 27 chi bộ). Trong đó có 55 chi, đảng bộ cơ quan sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, 02 chi, đảng bộ đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh và 08 chi, đảng bộ doanh nghiệp cấp tỉnh. Đảng ủy đã tập trung chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, làm chuyển biến về chất của phong trào. 100% chi, đảng bộ đều đăng ký phấn đấu thi đua. Kết quả năm 1999 có 51/65 chi, đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, trong đó 18 chi bộ, đảng bộ được Tỉnh ủy tặng bằng khen, 39 chi, đảng bộ cơ sở được Đảng ủy tặng giấy khen tăng 18,1% so với năm 1997. Nhiều cơ sở đảng của đảng bộ 5 năm liên tục được Tỉnh ủy biểu dương khen thưởng.
Cùng với chỉ đạo việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, Đảng ủy luôn quan tâm giải quyết các cơ sở yếu kém từng mặt; những biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm nguyên tắc quản lý kinh tế, mất đoàn kết đã được cấp ủy tập trung giải quyết dứt điểm bằng các biện pháp cụ thể, hiệu quả nên nhiều năm Đảng bộ không còn cơ sở yếu kém; đồng thời chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở tiến hành Đại hội nhiệm kỳ theo quy định của Điều lệ Đảng và kế hoạch chỉ đạo của Tỉnh ủy.
Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ được Đảng ủy thực hiện nghiêm túc: Mở các lớp chính trị phổ thông cho những đảng viên mới; lớp bồi dưỡng công tác đảng cho cấp ủy. Nhiều cấp ủy trong Đảng bộ phối hợp với thủ trưởng cơ quan xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hằng năm cho cán bộ, đảng viên. Từ năm (1997 – 2000), đã có hàng trăm cán bộ, đảng viên dự các lớp học, khoá học về chuyên môn, chính trị, quản lý Nhà nước, tin học, ngoại ngữ...với nhiều hình thức học tập và cấp học khác nhau.
Để có nguồn cho công tác phát triển đảng, Đảng ủy đã mở 10 lớp bồi dưỡng đối tượng cho hàng trăm quần chúng ưu tú. Từ năm (1997 - 2000) có 56/65 chi, đảng bộ kết nạp được 479 đảng viên mới, bằng 19% tổng số đảng viên trong Đảng bộ, tăng hơn so với nhiệm kỳ III 40%. Trong công tác phát triển đảng, cấp ủy đã chú ý đến đối tượng trẻ và đội ngũ trí thức, số đảng viên mới có trình độ cao đẳng, đại học chiếm tỷ lệ cao. Công tác phát triển đảng trong sinh viên, học sinh đã được chú ý, nhiệm kỳ IV đã kết nạp được 44 sinh viên vào Đảng, tăng 21 lần so với thời kỳ (1991 – 1995).
Từ năm (1997 - 2000), công tác kiểm tra của Đảng bộ được tăng cường. Thực hiện chương trình kiểm tra của Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Đảng ủy đã tổ chức 6 cuộc kiểm tra tại 22 chi, đảng bộ cơ sở về: Chấp hành quy chế làm việc của cấp ủy; thực hiện chương trình đưa thông tin về cơ sở; chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc"; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp...
Ủy ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ đã triển khai thực hiện toàn diện 5 nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, trọng tâm là kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm. Tiến hành kiểm tra và kết luận 43 đảng viên và 2 tổ chức đảng có vi phạm kỷ luật Đảng, trong đó phải xử lý kỷ luật 30 đảng viên và 2 tổ chức đảng; kiểm tra 138 lượt tổ chức cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; giải quyết 18 thư tố cáo, 2 thư khiếu nại về kỷ luật Đảng; kiểm tra 6 cấp ủy cơ sở về thi hành kỷ luật trong Đảng và gần 500 lượt tổ chức đảng cấp dưới về thực hiện chế độ đảng phí.
Từ năm (1997 – 2000) đã thi hành kỷ luật 67 đảng viên vi phạm, trong đó: Khai trừ 15, cách chức 02, cảnh cáo 29, khiển trách 21 đảng viên. Thi hành kỷ luật 01 chi ủy, 01 chi bộ bằng hình thức khiển trách. So với nhiệm kỳ III, số đảng viên bị kỷ luật tăng 35 người, gồm cả cấp ủy viên, đảng viên trong các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan đảng, nội dung vi phạm khá rộng như: Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước, tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân, đưa và nhận hối lộ, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng, vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống của người đảng viên. Đặc biệt một số vụ vi phạm pháp luật nghiêm trọng, trong đó có 09 cán bộ, đảng viên bị phạt tù, đã gây dư luận xấu trong nhân dân không chỉ trong tỉnh mà ở phạm vi cả nước.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) theo Kế hoạch số 08-KH/TU, ngày 25/6/1999 của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã xây dựng kế hoạch, tổ chức đợt sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ; thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Bí thư Đảng ủy làm Trưởng ban; hướng dẫn việc triển khai quán triệt tinh thần Nghị quyết đến các chi, đảng bộ cơ sở; thành lập 2 tổ công tác tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng tình hình cơ sở đảng và đảng viên; kết hợp với việc kiểm tra bước đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 ở 10 chi, đảng bộ cơ sở...Phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ chuẩn bị các nội dung báo cáo đánh giá thực trạng tình hình cơ sở đảng và đảng viên, xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2); hướng dẫn nội dung sinh hoạt chính trị, tự phê bình và phê bình trong Đảng; xây dựng báo cáo kiểm điểm của Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lựa chọn Đảng bộ cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh làm điểm chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2). Thành lập tổ công tác gồm 3 đồng chí do đồng chí Phạm Bá Tiếm, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra làm Tổ trưởng. Tiến hành gợi ý nội dung kiểm điểm đối với các cấp ủy cơ sở và đảng viên là cán bộ diện Đảng ủy quản lý.
Sau kết quả làm điểm ở Đảng bộ Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Đảng ủy đã chỉ đạo thực hiện trong toàn Đảng bộ. Các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ đã tiến hành sinh hoạt chính trị, liên hệ kiểm điểm, tự phê bình và phê bình. Đây là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, nội dung chủ yếu của cuộc vận động này là: Cán bộ, đảng viên tự phê bình và phê bình, sửa chữa khuyết điểm để góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện, nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ bám sát yêu cầu, nội dung, phương pháp tiến hành, bước đi và tiến độ của kế hoạch nhằm đánh giá đúng thực trạng về: Tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên ở đơn vị mình. Phần lớn các chi, đảng bộ tập trung làm rõ những ưu điểm, thiếu sót của cấp ủy, cán bộ đảng viên về đạo đức, lối sống, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, mức độ hoàn thành nhiệm vụ, những vi phạm về kinh tế, quan liêu, mất dân chủ, tham ô, chấp hành không nghiêm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước,...
Qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) đã làm cho Đảng ủy thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động; kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng như: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng; Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, không chấp nhận "đa nguyên đa đảng"; Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân; tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ giữ gìn và phát huy phẩm chất, lối sống lành mạnh, giữ vững bản chất của người đảng viên. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên vi phạm khuyết điểm và việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) còn những thiếu sót.
Sau Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ IV, tháng 11/1997, Ban Thường vụ Đảng ủy đã kiện toàn tổ chức bộ máy Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh, cử những đảng viên có phẩm chất đạo đức và năng lực tham gia Ban Chấp hành; định kỳ nghe báo cáo, cho ý kiến chỉ đạo định hướng hoạt động, tháo gỡ khó khăn giúp Đoàn thanh niên cải tiến nội dung và đổi mới phương thức hoạt động phù hợp với yêu cầu. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy đảng, tổ chức Đoàn thanh niên đã thể hiện vai trò, vị trí, chức năng là lực lượng xung kích sáng tạo, là đội dự bị tin cậy của Đảng; tích cực triển khai thực hiện các phong trào "Thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước", "Làm giàu chính đáng"," Xây dựng gia đình hạnh phúc", "Phong trào văn hoá - văn nghệ - thể dục thể thao". Tổ chức Đoàn thanh niên đã giáo dục cho thanh niên lý tưởng, truyền thống cách mạng, đạo đức lối sống trong sáng; không ngừng học tập rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đóng góp sức lực, trí tuệ của mình vào thành tích chung của Đảng bộ. Thông qua hoạt động, Tổ chức Đoàn thanh niên đã lựa chọn và giới thiệu với Đảng gần 500 đoàn viên ưu tú, 234 đồng chí đã được kết nạp vào Đảng. Tháng 12/1999, Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa II gồm 19 đồng chí; đ/c Nguyễn Thị Tỉnh được BCH bầu giữ chức Bí thư.
Trong nhiệm kỳ, tổ chức Công đoàn và Đoàn thanh niên trong Đảng bộ đã tích cực tham gia các đợt sinh hoạt chính trị, học tập chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh; cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chi bộ, đảng bộ vững mạnh, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở các cơ quan, đơn vị. Các tổ chức quần chúng đã động viên đoàn viên thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, chấp hành kỷ luật lao động, đoàn kết giúp nhau công tác, học tập, thi đua lao động sáng tạo, thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cải tiến lề lối làm việc và tham gia các hoạt động từ thiện, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn để lại những dấu ấn tốt đẹp trong cộng đồng xã hội.
Sau 3 năm tái lập (1997 - 1999), dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy trong Đảng bộ, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lao động trong Đảng bộ đã nỗ lực phấn đấu, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đang tiếp tục được triển khai mạnh mẽ; khoa học - công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất; toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, tạo ra cho Việt Nam cơ hội mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới, đồng thời phải đấu tranh để bảo vệ lợi ích, hạn chế những tác động tiêu cực của nó đối với đất nước.
Đất nước sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng; cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; môi trường hòa bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế là cơ hội để nước ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực; đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ về: Tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu, âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân1...
Trong bối cảnh chung đó, tỉnh Hải Dương cũng có những khó khăn, thách thức và thuận lợi riêng: Với lợi thế về vị trí địa lý, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, nhân dân cần cù, chịu khó…là động lực phát triển của tỉnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh cũng gặp nhiều thách thức; kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ở mức cao, tích lũy nội bộ thấp, vốn đầu tư thiếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh kém; lao động tuy đông nhưng trình độ thấp; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; tệ quan liêu, tham nhũng, tệ nạn xã hội chưa bị đẩy lùi2…Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có vai trò quan trọng góp phần vào sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh; cùng với đó sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới, càng đòi hỏi nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Từ ngày 26-28/11/2000, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ V, nhiệm kỳ 2001 - 2005. Tham dự Đại hội có 150 đại biểu đại diện cho 2.467 đảng viên của 65 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ.
Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, những thiếu sót, tồn tại và quán triệt sâu sắc những quan điểm, định hướng chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy, Đại hội thống nhất đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ 5 năm tới (2001 - 2005) là: “Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII; lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công nhân viên nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động sáng tạo, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao; tăng cường công tác xây dựng Đảng trên cả ba mặt: Chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống và năng lực tổ chức điều hành, đưa Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có bước phát triển vững chắc, đáp ứng sự nghiệp đổi mới của Đảng”1 và đề ra các mục tiêu thực hiện trên các lĩnh vực công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ đó là: Phấn đấu đến năm 2005, toàn Đảng bộ có từ 80% số chi, đảng bộ cơ sở đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh trở lên, không có cơ sở yếu kém; hàng năm có từ 99,5% số đảng viên trở lên đủ tư cách, trong đó, đảng viên phát huy tác dụng tốt đạt từ 90,5% trở lên, hạn chế đến mức thấp nhất đảng viên vi phạm kỷ luật; trong nhiệm kỳ kết nạp được 500 đảng viên mới trở lên; phấn đấu đến năm 2005 có trên 75% số tổ chức cơ sở đoàn đạt danh hiệu vững mạnh, không có cơ sở trung bình; 99,6% đoàn viên đủ tư cách, trong đó có 70% trở lên đoàn viên xuất sắc; có 80% trở lên công đoàn cơ sở đạt danh hiệu vững mạnh, không có cơ sở yếu.
Đại hội đã bầu 19 đồng chí tham gia Ban Chấp hành nhiệm kỳ 2001 - 2005. Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành đã bầu 4 đồng chí vào Ban Thường vụ Đảng ủy là: Đồng chí Phùng Văn Hưng, Phạm Bá Tiếm, Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Thị Tỉnh; đồng chí Phùng Văn Hưng được bầu làm Phó Bí thư; 5 đồng chí được bầu vào Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy, đồng chí Phạm Bá Tiếm, Ủy viên Ban Thường vụ được bầu làm Chủ nhiệm, đồng chí Vũ Thị Chuyền, Ủy viên Ban Chấp hành được bầu làm Phó Chủ nhiệm. Từ tháng 11/2000 đến tháng 10/2001, do chưa có Bí thư nên đồng chí Phùng Văn Hưng, Phó Bí thư Thường trực phụ trách chung. Tháng 10/2001, Ban Thường vụ Tỉnh ủy phân công đồng chí Nguyễn Văn Thái, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh. Tháng 5/2003, đồng chí Nguyễn Văn Thái được Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều động làm Bí thư Huyện ủy Bình Giang; tháng 6/2003, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có Nghị quyết phân công đồng chí Bùi Văn Dương, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tài chính về làm Phó Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh; đến tháng 7/2005 đồng chí Bùi Văn Dương có quyết định nghỉ hưu; 05 đồng chí cấp ủy viên chuyển công tác, 01 đồng chí nghỉ hưu. Sau Đại hội, Đảng bộ có 2.467 đảng viên sinh hoạt ở 65 tổ chức cơ sở đảng (38 đảng bộ, 27 chi bộ); do có sự biến động về chuyển giao, tiếp nhận, nâng cấp, sáp nhập các chi, đảng bộ nên đến cuối năm 2001, số đảng viên giảm còn 2.332 đồng chí sinh hoạt ở 60 tổ chức cơ sở đảng (32 đảng bộ, 28 chi bộ), đến tháng 8/2005 số đảng viên tăng lên 2.827 đồng chí, sinh hoạt ở 64 tổ chức cơ sở đảng (39 đảng bộ, 25 chi bộ).
Thực hiện Hướng dẫn số 14-HD/BTCTW, ngày 22/11/2002 của Ban Tổ chức Trung ương về “Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Đảng ủy Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh trực thuộc Tỉnh ủy, Thành ủy”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định số 503-QĐ/TU, ngày 04/9/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Đảng ủy Các cơ quan tỉnh Hải Dương; theo đó tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách của Đảng ủy có 12 biên chế, gồm: Đồng chí Phùng Văn Hưng, Phó Bí thư Thường trực; đồng chí Nguyễn Văn Điệp, Trưởng ban Tổ chức; đồng chí Phạm Bá Tiếm, Chủ nhiệm UBKT, đồng chí Nguyễn Thị Tỉnh, Trưởng ban Tuyên giáo; đồng chí Đào Thanh Tân, Chánh Văn phòng; đồng chí Vũ Thị Chuyền, Phó Chủ nhiệm UBKT; đồng chí Nguyễn Thị Liễu, Phó Trưởng ban Tổ chức; đồng chí Nguyễn Xuân Hưởng, chuyên viên Ban Tổ chức; đồng chí Vũ Thị Nga, chuyên viên Ban Tuyên giáo; đồng chí Vũ Đức Hữu, chuyên viên Văn phòng; đồng chí Nguyễn Duy Cường, chuyên viên Văn phòng; đồng chí Phạm Ngọc Hòa, nhân viên Văn phòng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ V, các cấp ủy, chi bộ và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức, lao động trong toàn Đảng bộ đã có nhiều cố gắng, khắc phục mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao.
Công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng được Đảng ủy xác định là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng và chỉ đạo chặt chẽ theo định hướng của Đảng. Đảng ủy và các cấp ủy, chi bộ cơ sở đã tổ chức quán triệt, học tập đầy đủ, kịp thời và có chất lượng Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Tỉnh ủy và xây dựng chương trình hành động của cơ quan, đơn vị để đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Kết quả, số cán bộ, đảng viên tham gia học tập các nghị quyết trong toàn nhiệm kỳ là 4.110 lượt, trên 97% cán bộ, đảng viên, 95% quần chúng tham gia học tập; 100% đảng viên viết bài thu hoạch sau học tập, nghiên cứu Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Qua học tập, nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lao động được nâng lên, phấn khởi, tin tưởng vào những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới của đất nước, của địa phương, đơn vị và mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng.
Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục truyền thống được Đảng ủy quan tâm lãnh đạo và hoạt động ngày càng có hiệu quả với nhiều hình thức phong phú: Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao nhân các ngày lễ lớn của Đảng, của dân tộc; tổ chức lễ kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống Ngành kiểm tra Đảng (16/10/1948-16/10/2003). Tổ chức 02 hội thi báo cáo viên: Năm 2001, tổ chức thành công Hội thi “Báo cáo viên cơ sở giỏi lần thứ nhất”, lựa chọn được 02 báo cáo viên tham gia hội thi báo cáo viên giỏi cấp tỉnh; năm 2003 tổ chức hội thi báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh, kết quả có 19 báo cáo viên tham gia Hội thi đều đạt loại khá, giỏi; Đảng ủy đã chọn 02 báo cáo viên xuất sắc tham gia hội thi báo cáo viên giỏi cấp tỉnh. Tháng 10/2004, Đảng ủy tổ chức thành công cuộc thi tìm hiểu “75 năm truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam” với 5.951 bài dự thi, vượt kế hoạch 98,4% (Tỉnh ủy giao 3.000 bài, 20 bài chất lượng cao), có 60/62 chi, đảng bộ tham gia; kết quả có 20 cá nhân, 11 tập thể có giải. Tháng 5/2005, Đảng ủy tổ chức cuộc thi tìm hiểu “60 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” với 5.498 bài dự thi của 62/64 chi, đảng bộ cơ sở, đã chọn 20 bài dự thi xuất sắc tham dự thi cấp tỉnh. Tiến hành biên soạn và phát hành cuốn “Lịch sử Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương giai đoạn 1952 – 2000” vào năm 2004. Qua đó đã góp phần giáo dục cán bộ, đảng viên hiểu sâu sắc hơn về truyền thống của Đảng, của dân tộc, về Bác Hồ kính yêu, truyền thống 48 năm xây dựng và phát triển của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh; xây dựng tinh thần tự lực, tự cường; đạo lý uống nước nhớ nguồn, tạo khí thế thi đua trong mỗi cơ quan, đơn vị. Đồng thời chú trọng việc đưa thông tin đến cơ sở; Ban Thường vụ Đảng ủy đã trích một phần kinh phí chi tiêu thường xuyên mua 400 cuốn bản tin nội bộ do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phát hành cấp cho các cấp ủy, chi bộ cơ sở làm tài liệu sinh hoạt hằng tháng. Đội ngũ báo cáo viên trong Đảng bộ thường xuyên được kiện toàn đã kịp thời thông tin tình hình thời sự trong tỉnh, trong nước, quốc tế, các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên trong các kỳ sinh hoạt chi bộ.
Các cấp ủy, chi bộ trong Đảng bộ luôn coi trọng việc nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, quần chúng; nhiều cấp ủy đã giải quyết kịp thời những kiến nghị chính đáng của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; đồng thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng của cán bộ, đảng viên và người lao động trong các cơ quan, đơn vị. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, Đảng ủy đã xây dựng Đề án “Nâng cao chất lượng thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW, ngày 12/5/1999 của Bộ Chính trị và Quy định số 05-QĐ/TU của Tỉnh ủy Hải Dương về chế độ học tập lý luận trong Đảng” triển khai trong toàn Đảng bộ. Mặc dù không có trung tâm bồi dưỡng chính trị, song do huy động được đội ngũ báo cáo viên, giảng viên kiêm chức của Đảng ủy hoạt động tích cực nên đã hoàn thành chương trình đào tạo, bồi dưỡng hằng năm đề ra. Kết quả, từ năm (2001 – 2005), Đảng ủy đã mở 55 lớp đào tạo, bồi dưỡng cho 5.642 lượt cán bộ, đảng viên1: 10 lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng cho 1.023 quần chúng ưu tú; 09 lớp đảng viên mới cho 730 đảng viên dự bị; 04 lớp sơ cấp lý luận cho 256 đảng viên; 03 lớp trung cấp lý luận cho 229 đảng viên và 29 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng cho 4.404 lượt cấp ủy viên, cán bộ đoàn thanh niên, công đoàn. Các lớp bồi dưỡng, đào tạo được tổ chức chặt chẽ, đảm bảo về nội dung theo quy định, phù hợp với đặc thù của Đảng bộ, chất lượng học tập đạt yêu cầu đề ra, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ. Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị đã quan tâm chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức. Do làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nên trình độ của đảng viên được nâng lên rõ rệt; đến năm 2005 số đảng viên có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ đạt 2,86%, trình độ đại học, cao đẳng đạt 69% tăng 5,2% so với năm 2000.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số cấp ủy, chi bộ việc tổ chức triển khai quán triệt các chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng chưa kịp thời, chất lượng học tập còn hạn chế, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện còn mang tính hình thức; việc nắm bắt, xử lý tình hình tư tưởng nảy sinh trong cơ quan, đơn vị, tổ chức ở một vài cơ sở có lúc chưa kịp thời, đầy đủ; chất lượng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu.
Trong công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị: Các cấp ủy, chi bộ trong Đảng bộ đã chủ động thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo Quy định 96,97,98 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX; thường xuyên tham gia ý kiến với Ban cán sự đảng, Đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị được giao; tập trung lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng tham gia xây dựng và thực hiện tốt các chủ trương công tác của cơ quan, đơn vị; lấy hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn làm căn cứ chủ yếu để đánh giá chất lượng đảng viên; xây dựng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ, các quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị; phát huy quyền làm chủ của cán bộ, đảng viên và quần chúng; từng bước cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, hạn chế việc gây phiền hà cho các tổ chức và nhân dân. Công tác quản lý nhà nước của các sở, ngành có nhiều tiến bộ. Nhìn chung đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nêu cao tinh thần trách nhiệm, cải tiến lề lối, phương pháp làm việc khoa học, nâng cao hiệu quả công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; góp phần đáng kể vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII đề ra: Kinh tế tăng trưởng bình quân 10,5%/năm; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thu ngân sách nhà nước trong toàn tỉnh năm 2005 đạt 2.000 tỷ đồng; cơ sở hạ tầng phát triển mạnh, nhất là về giao thông, thủy lợi, mạng lưới điện, bưu điện, viễn thông, trường học, bệnh viện, khu đô thị…Đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân tiếp tục được nâng cao rõ rệt (năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo trong toàn tỉnh giảm xuống còn 4,2%, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn dưới 0,98%, thấp hơn trung bình cả nước); giải quyết việc làm cho trên 2 vạn người mỗi năm; hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện được quan tâm hơn và hoạt động ngày càng hiệu quả. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được đảm bảo.
Tuy nhiên, việc tham gia lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cấp ủy, chi bộ trên một số lĩnh vực về: Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở… chưa có chuyển biến rõ nét, còn có biểu hiện gây phiền hà cho tổ chức và công dân; tình trạng vi phạm quy chế dân chủ vẫn còn xảy ra, nhất là quy định những điều cán bộ, công chức được biết, được bàn, được tham gia và quy chế công khai tài chính hàng năm.
Công tác tổ chức xây dựng đảng trong Đảng bộ có nhiều chuyển biến tích cực cả về nhận thức, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện trên 2 lĩnh vực: Xây dựng, kiện toàn tổ chức đảng và công tác đảng viên. Ngay từ đầu nhiệm kỳ và sau khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quyết định số 503-QĐ/TU, ngày 04/9/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Đảng ủy Các cơ quan tỉnh Hải Dương, Đảng ủy đã tiến hành việc rà soát, sắp xếp, kiện toàn 29 lượt tổ chức cơ sở đảng phù hợp với bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị cấp tỉnh: Thành lập mới 08 chi bộ (Chi bộ Công ty Bảo hiểm nhân thọ năm 2001; Chi bộ Hội người mù tỉnh, Chi bộ Đoàn thể Khối các cơ quan tỉnh, Chi bộ Ban quản lý khu công nghiệp năm 2003; Chi bộ cơ quan Văn phòng UBND và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Chi bộ Hội Nhà báo tỉnh, Chi bộ Bệnh viện Điều dưỡng và PHCN tỉnh, Chi bộ Sở Bưu chính viễn thông năm 2004). Nâng cấp 8 chi, đảng bộ (Nâng cấp 04 Đảng bộ bộ phận Ngân hàng lên Đảng bộ, chi bộ cơ sở năm 2001; nâng cấp Chi bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và UBKT Tỉnh ủy lên Đảng bộ; nâng cấp Chi bộ Báo Hải Dương thành Đảng bộ Báo Hải Dương; tách và nâng cấp Chi bộ Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh trực thuộc Đảng bộ Văn phòng HĐND tỉnh và UBND tỉnh thành chi bộ cơ sở năm 2002). Sáp nhập 4 chi, đảng bộ thành 2 chi, đảng bộ (năm 2001 sáp nhập Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy với Ban Tài chính quản trị; sáp nhập Chi bộ Ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình với Ủy ban Chăm sóc và bảo vệ trẻ em thành Chi bộ Ủy ban dân số gia đình và trẻ em; năm 2002 sáp nhập Chi bộ Hội Nhà báo vào Chi bộ Liên hiệp các Hội KHKT tỉnh). Năm 2001 bàn giao 3 tổ chức đảng sang Thành ủy Hải Dương: Đảng bộ Đê kè, Đảng bộ Công ty Tàu cuốc, Chi bộ Công ty Dâu tằm tơ theo Quyết số 127-QĐ/TU, ngày 06/6/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương về sắp xếp một số tổ chức đảng thuộc thành phố Hải Dương và Đảng bộ Các cơ quan tỉnh. Năm 2001 chuyển 2 chi bộ về trực thuộc đảng bộ cơ sở (Chi bộ công ty du lịch Côn Sơn thuộc Ban Tài chính quản trị sang trực thuộc Đảng bộ Sở Thương mại; chuyển Chi bộ cơ sở Ban Quản lý thị trường trực thuộc Đảng bộ Sở Thương mại và Du lịch). Năm 2002 giải thể Chi bộ Ban kinh tế Tỉnh ủy theo Quyết định 250-QĐ/TU, ngày 20/3/2002 của BTV Tỉnh ủy. Các đảng ủy cơ sở thành lập mới 12 chi bộ trực thuộc.
Việc kiện toàn, xây dựng đội ngũ cấp ủy viên các cấp được Đảng ủy coi trọng, chỉ đạo chặt chẽ, nhất là trong mỗi kỳ đại hội và được các cấp ủy, chi bộ cơ sở thực hiện khá nghiêm túc, đảm bảo nguyên tắc, quy trình, mở rộng dân chủ trong các bước giới thiệu nguồn cấp ủy và tranh thủ ý kiến của lãnh đạo cơ quan, đơn vị đối với nhân sự bí thư cấp ủy. Vì vậy, Đảng ủy đã xây dựng được đội ngũ cấp ủy viên đảm bảo tiêu chuẩn, có số lượng cơ cấu hợp lý, tiêu biểu cho đội ngũ đảng viên của Đảng bộ, 100% bí thư cấp ủy, chi bộ cơ sở là lãnh đạo chủ chốt của cơ quan, đơn vị. Thực hiện Chỉ thị 08-CT/TU, ngày 10/7/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) và Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XII) về thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, hằng năm hầu hết các đồng chí cấp ủy viên được tập thể đánh giá xếp loại đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó nhiều đồng chí được bình chọn là đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Căn cứ quy định của Điều lệ Đảng, Hướng dẫn số 01-HD/TC, ngày 12/4/2003 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về tổ chức đại hội cấp cơ sở nhiệm kỳ 2003 - 2005; Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo tổ chức đại hội đảng cấp cơ sở nhiệm kỳ 2003 - 2005; lựa chọn Đảng bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Đại hội điểm; sau Đại hội điểm đã rút kinh nghiệm trong toàn Đảng bộ để triển khai thực hiện thống nhất; đồng thời, phân công cấp ủy trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện. Đến ngày 05/9/2003, 64/64 chi, đảng bộ cơ sở đã tổ chức thành công Đại hội. Công tác nhân sự cấp ủy cơ sở được chuẩn bị chu đáo, đúng quy trình và đảm bảo dân chủ nên có tới 98,7% số cơ sở tại đại hội bầu cử Ban Chấp hành có kết quả đúng với danh sách dự kiến giới thiệu. Tổng số cấp ủy viên cơ sở là 405 đồng chí (65 Ủy viên Ban Thường vụ; 64 Bí thư; 62 Phó Bí thư). Thực hiện Kế hoạch số 33-KH/TU, ngày 02/5/2003 của Tỉnh ủy về “Tổ chức kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội giữa nhiệm kỳ”. Đảng ủy đã tiến hành sơ kết giữa nhiệm kỳ Đại hội lần thứ V, nhằm đánh giá những kết quả đã đạt được, những khuyết điểm, yếu kém. Trên cơ sở đó đề ra những nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh nhiệm kỳ 2000-2005.
Với mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng; trên cơ sở các nhiệm vụ trọng tâm công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ được xác định trong nhiệm kỳ; ngay sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ đã xây dựng và ban hành Quy chế làm việc của Đảng ủy khóa V, trong quá trình thực hiện đã bổ sung, sửa đổi 2 lần Quy chế làm việc để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Đảng ủy; tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ và ban hành Quy chế làm việc của các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc của Đảng ủy nhằm phục vụ tốt hơn công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành; tập trung chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng Quy chế làm việc của các cấp ủy, chi bộ cơ sở đảm bảo chất lượng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng nhằm thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, mối quan hệ phối hợp giữa Ban cán sự đảng, Đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan, thực hiện tốt chế độ sinh hoạt đảng. Nhiều cấp ủy thực hiện khá nghiêm túc quy chế đã ban hành, phát huy được trí tuệ, trách nhiệm của cá nhân từng cấp ủy viên, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong nhiệm kỳ, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy đã ban hành 27 thông báo, 10 hướng dẫn, 37 kế hoạch và 207 quyết định để chỉ đạo, điều hành hoạt động trên các lĩnh vực. Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiếp thu và sửa chữa thiếu sót khuyết điểm trong đợt tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, TW 6 (lần 2) khóa VIII của Đảng và tiến hành sơ kết đánh giá kết quả, đồng thời đề ra phương hướng, biện pháp thực hiện tiếp theo nhằm nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên theo Kế hoạch số 05-KH/TU, ngày 10/4/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Kế hoạch số 07- KH/ĐU, ngày 15/4/2001 của Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh; qua đó đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, tư tưởng trong cấp ủy và đội ngũ đảng viên; một số tổ chức cơ sở đảng có những vấn đề nội cộm kéo dài trong giai đoạn trước đây thì nay đã được giải quyết, nội bộ đoàn kết gắn bó hơn; một số hiện tượng tiêu cực, lãng phí đã kịp thời được ngăn chặn.
Năm 2003, Đảng ủy đã xây dựng và triển khai thực hiện Đề án số 03 về “Từng bước nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ” theo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ V, với hệ thống các giải pháp cụ thể. Trong quá trình thực hiện Đề án tuy còn nhiều hạn chế nhưng đã mạng lại kết quả bước đầu: Nhận thức của đội ngũ cấp ủy, đảng viên đối với việc thực hiện chế độ sinh hoạt cấp ủy, chi bộ được nâng lên; nội dung sinh hoạt của một số chi bộ đã bám sát chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng, phát huy được trí tuệ của đảng viên trong việc tham gia xây dựng Nghị quyết gắn với nhiệm vụ chính trị của tổ chức, đơn vị mình.
Công tác đảng viên được Đảng ủy quan tâm trên tất cả các mặt từ quản lý, giáo dục, bồi dưỡng đến phát triển đảng viên mới. Thực hiện Kế hoạch số 21- KH/TU, ngày 10/7/2002 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng ủy đã xây dựng Báo cáo tổng kết 22 năm thực hiện Chỉ thị số 83-CT/TW, ngày 26/11/1979 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV) “Về việc phát thẻ đảng viên”; xây dựng Kế hoạch 21-KH/ĐU, ngày 25/12/2003 của Đảng ủy Các cơ quan tỉnh thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 17/10/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đổi thẻ đảng viên; chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ trực thuộc quán triệt cho đảng viên nắm vững mục đích, yêu cầu, nguyên tắc của việc đổi thẻ đảng viên; tiến hành xét, đổi thẻ cho 2.535 đảng viên, đảm bảo nguyên tắc, trình tự, chính xác, đúng tiến độ. Các tổ chức cơ sở đảng đã tổ chức lễ đổi thẻ trang nghiêm, long trọng đảm bảo theo đúng yêu cầu, quy định của Ban Bí thư; đảng viên được đổi thẻ nhận thức rõ vinh dự và trách nhiệm của cá nhân đối với tổ chức đảng; cùng với việc đổi, phát thẻ đảng cho đảng viên, công tác quản lý hồ sơ đảng viên, phân công nhiệm vụ cho đảng viên được chấn chỉnh đầy đủ và thống nhất, 100% chi, đảng bộ cơ sở đã giới thiệu đảng viên giữ mối liên hệ với cấp ủy, chi bộ và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú theo Quy định số 76-QĐ/TW, ngày 15/6/2000 của Bộ Chính trị; hàng năm các cấp ủy, chi bộ đều lấy ý kiến nhận xét của cấp ủy, chi bộ khu dân cư nơi cư trú đối với đảng viên, giúp cho việc phân tích, đánh giá chất lượng đảng viên, quản lý đảng viên ở chi bộ mình được chính xác, chặt chẽ hơn. Kết quả, có 99,1% đảng viên của Đảng bộ được giới thiệu về tham gia sinh hoạt ở nơi cư trú được cơ sở nhận xét là đảng viên tốt, hòa đồng và phát huy tinh thần gương mẫu tại khu dân cư, 0,8% số đảng viên được nhận xét là đảng viên trung bình và 0,1% đảng viên được nhận xét là chưa tốt.
Công tác phát triển đảng tiếp tục được các cấp ủy quan tâm thực hiện thường xuyên, tạo nguồn kết nạp đảng viên mới. Nét nổi bật trong nhiệm kỳ này là các tổ chức cơ sở đảng có nguồn phát triển đảng viên đều kết nạp được đảng viên, khắc phục được tình trạng một số cơ sở có nguồn nhưng không kết nạp được đảng viên. Chất lượng đảng viên mới kết nạp được đảm bảo cả về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Đến tháng 8/2005, toàn Đảng bộ đã kết nạp được 613 đảng viên, vượt chỉ tiêu đề ra và tăng so với nhiệm kỳ trước là 20,67% (trong đó, đảng viên trong độ tuổi đoàn viên chiếm 62,4% tăng so với nhiệm kỳ trước là 12,4%; đảng viên mới có trình độ đại học, cao đẳng trở lên chiếm 66,7%, tăng 11,4% so với trước). Xét chuyển chính thức cho 932 đảng viên dự bị, giới thiệu chuyển sinh hoạt cho 711 đồng chí, tiếp nhận đến 715 đồng chí. Đề nghị cấp phát thẻ đảng viên cho 962 đồng chí, xét tặng Huy hiệu Đảng cho 06 đồng chí.
Việc đánh giá, phân tích chất lượng đảng viên hàng năm đã có chuyển biến tích cực, phản ánh sát thực tế hơn, tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo quy định của Trung ương không cao như những năm trước đây. Số lượng đảng viên dự phân loại tăng từ 98,4% năm 2001 lên đến 99,5% năm 2004; tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2002 là 68%, năm 2004 giảm xuống còn 35%; tỷ lệ đảng viên hoàn thành nhiệm vụ giảm từ 31,3% năm 2002 xuống còn 7,6% năm 2004; số đảng viên vi phạm tư cách trong nhiệm kỳ là 59 đồng chí. Việc đánh giá đảng viên hàng năm có tác dụng nhắc nhở, giáo dục những đảng viên còn có biểu hiện thiếu tinh thần phấn đấu, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh tiếp tục được đẩy mạnh, ngày càng có chất lượng và đi vào chiều sâu, tạo nên động lực mạnh mẽ để các cấp ủy, chi bộ cơ sở thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo Chỉ thị số 06-CT/TU, ngày 14/3/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Hướng dẫn số 01-HD/TC, ngày 26/3/2001 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về “Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh”; trên cơ sở Quyết định số 529-QĐ/TU, ngày 07/11/2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Hệ thống biểu điểm, tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và phương pháp đánh giá chất lượng đảng viên”, Đảng ủy đã lượng hóa từng nội dung, xây dựng biểu điểm cho từng chỉ tiêu, sửa đổi và hoàn thiện quy trình thẩm định, đánh giá thành tích thi đua để làm căn cứ xét duyệt công nhận tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh hàng năm; theo đó các cấp ủy, chi bộ đã đề ra mục tiêu phấn đấu cụ thể và thực hiện tốt việc đăng ký thi đua ngay từ đầu năm; đồng thời xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện trong từng thời gian. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh trong nhiệm kỳ bình quân là 94,8% (năm 2001 có 55/60 tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh chiếm tỷ lệ 91,66%; 05/60 tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ 8,34%; đến năm 2004 có 60/62 tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh chiếm tỷ lệ 97%; 02/62 tổ chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ 3%; nhiều chi, đảng bộ đã có biện pháp phấn đấu giữ vững danh hiệu trong sạch vững mạnh xuất sắc, trong đó có 97 lượt tổ chức cơ sở đảng được Tỉnh ủy tặng Bằng khen; 108 lượt tổ chức cơ sở đảng được Đảng ủy tặng Giấy khen; nhiều chi, đảng bộ giữ vững thành tích trong sạch vững mạnh liên tục trong suốt nhiệm kỳ. Ban Thường vụ Tỉnh ủy tặng Cờ cho 13 chi, đảng bộ cơ sở (ĐB Ban Tổ chức Tỉnh ủy, ĐB Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, ĐB Kho bạc Nhà nước tỉnh, CB Hội LHPN tỉnh, ĐB Công ty Bảo hiểm Bảo việt, ĐB Sở Giáo dục và Đào tạo, ĐB Trường Chính trị tỉnh, ĐB VP UBND tỉnh, ĐB Văn phòng Tỉnh ủy, CB Hội Cựu chiến binh tỉnh, ĐB Ngân hàng Nhà nước tỉnh, ĐB UBKT Tỉnh ủy, ĐB Bảo hiểm xã hội tỉnh).
Tuy nhiên, trong công tác tổ chức xây dựng đảng, việc thực hiện Quy chế làm việc của một số cấp ủy cơ sở vẫn chưa nghiêm túc, có nơi còn biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ: Không duy trì đúng chế độ sinh hoạt cấp ủy và thực hiện đúng những nội dung được quy định trong quy chế, quyết định không đúng thẩm quyền, vi phạm quy chế bầu cử trong Đảng; chế độ tự phê bình và phê bình chưa thực hiện thường xuyên, hiệu quả thấp, tình trạng e dè nể nang, không dám đấu tranh, ngại va chạm còn khá phổ biến; nội dung sinh hoạt còn dàn trải, chưa đáp ứng được yêu cầu; nghị quyết các kỳ sinh hoạt ở một số chi bộ còn chung chung…dẫn đến chất lượng một số cuộc sinh hoạt cấp ủy, chi bộ còn thấp.
Về công tác kiểm tra Đảng: Quán triệt tư tưởng công tác kiểm tra của Đảng là: “Chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả” và ý nghĩa, tác dụng, tầm quan trọng của công tác kiểm tra trong thời kỳ thực hiện sự nghiệp đổi mới của Đảng; trong nhiệm kỳ các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra 2 cấp trong toàn Đảng bộ đã luôn coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng. Ngay sau Đại hội, Đảng ủy đã ban hành Quy chế số 07-QC/ĐU, ngày 31/01/2001 Quy chế làm việc Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy và chỉ đạo các đảng ủy cơ sở ban hành Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra đảng ủy cơ sở. Căn cứ quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Đảng ủy đã ban hành Quy chế số 03-QC/ĐU ngày 25/4/2002, quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy (sửa đổi); xây dựng và triển khai thực hiện Đề án số 02- ĐA/ĐU, ngày 28/10/2002 của Đảng ủy về “Tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, chi bộ đối với công tác kiểm tra theo điều 30 Điều lệ Đảng”. Sau 3 năm triển khai thực hiện Đề án cho thấy: Việc lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là cấp ủy cơ sở đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và tổ chức thực hiện.
Hằng năm, Đảng ủy đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ công tác kiểm tra và xây dựng chương trình kiểm tra sát với nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ; thực hiện chế độ định kỳ nghe Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy báo cáo tình hình thực hiện công tác kiểm tra trong Đảng bộ để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy đã tổ chức thực hiện 08 cuộc kiểm tra tại 48 chi, đảng bộ cơ sở (tăng 2 cuộc và 26 cơ sở so với nhiệm kỳ trước). Nội dung kiểm tra tập trung vào việc thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2); việc thực hiện Quy định 19-QĐ/TW, ngày 03/01/2002 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm; việc xây dựng và thực hiện Quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về công tác cán bộ; việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 06-CT/TU của Tỉnh ủy Hải Dương, Nghị định số 17, 07 của Chính phủ về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; việc thực hiện Điều lệ Đảng theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính; việc thực hiện các đề án trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ V. Cùng với việc thực hiện các cuộc kiểm tra theo chương trình đã đề ra, hằng năm Đảng ủy đã thực hiện và chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ cơ sở thực hiện nghiêm túc 12 cuộc kiểm tra theo kế hoạch của Trung ương và Tỉnh ủy.
Nhìn chung, công tác kiểm tra của các cấp ủy, chi bộ cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực hơn so với nhiệm kỳ trước, đã bám sát các nội dung Đề án số 02 của Đảng ủy để lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra của đảng bộ, chi bộ. Việc xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra của các cấp ủy, chi bộ đã đi vào nền nếp và tốt hơn: Năm 2001, có 28/62 cấp ủy, chi bộ xây dựng được chương trình kiểm tra thì từ năm 2003 đến năm 2005 có 100% cấp ủy, chi bộ có chương trình kiểm tra và phân công cấp ủy viên trực tiếp thực hiện các cuộc kiểm tra của cấp ủy. Trong nhiệm kỳ các cấp ủy cơ sở đã kiểm tra được 689 lượt chi bộ (tăng 250 lượt chi bộ so với nhiệm kỳ trước), kiểm tra 2.505 lượt cấp ủy viên và đảng viên. Nhiều cuộc kiểm tra về cơ bản đã đảm bảo quy trình và chất lượng.
Hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy và các Ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở được tăng cường và triển khai thực hiện khá toàn diện nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, trọng tâm là kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm và kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra. Tiến hành kiểm tra 41 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, qua kiểm tra đã kết luận 35 đảng viên có vi phạm, trong đó xử lý kỷ luật 21 đảng viên; kiểm tra 393 lượt tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra (tăng 255 lượt tổ chức so với nhiệm kỳ trước); kiểm tra tài chính cấp ủy cùng cấp; chế độ thu, nộp và sử dụng đảng phí 693 lượt tổ chức (tăng 193 lượt tổ chức so với nhiệm kỳ trước); giải quyết 17 thư tố cáo đối với đảng viên và 01 thư khiếu nại về kỷ luật Đảng; kiểm tra thi hành kỷ luật tại 20 tổ chức đảng gồm 29 vụ kỷ luật. Trong nhiệm kỳ, các tổ chức đảng có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật 34 đảng viên (giảm 30 đảng viên so nhiệm kỳ trước. Trong đó: Khai trừ 4, cách chức 1, cảnh cáo 9, khiển trách 20). Việc thi hành kỷ luật đảm bảo phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục và thể hiện sự nghiêm minh trong kỷ luật Đảng. Kết quả công tác kiểm tra trong nhiệm kỳ của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng và thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của chi, đảng bộ.
Tuy vậy, việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra của một số cấp ủy chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ của Đảng trong tình hình mới; triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng đến cơ sở nhiều nhưng kiểm tra việc thực hiện còn ít; chất lượng một số cuộc kiểm tra của một số cấp ủy cơ sở chưa cao dẫn đến một số nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng chưa được thực hiện nghiêm ở cơ sở; việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm tuy đã được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của UBKT các cấp, nhưng tổ chức thực hiện và kết quả còn nhiều hạn chế, chưa phản ánh đúng tình hình vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; một số chi bộ trong đảng bộ cơ sở chưa thực sự coi trọng công tác kiểm tra đảng viên theo chương trình, kế hoạch đề ra.
Công tác lãnh đạo cơ quan và các đoàn thể quần chúng vững mạnh tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh; các cơ quan, đơn vị đã chủ động xây dựng Quy chế hoạt động, đăng ký xây dựng cơ quan trong sạch vững mạnh; làm tốt công tác quản lý, giáo dục, động viên cán bộ, công nhân viên chức, lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao; hằng năm có 95% cơ quan đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh (trong đó cơ quan chính quyền đạt trong sạch vững mạnh cấp tỉnh năm sau cao hơn năm trước: Năm 2000 có 23 cơ quan; năm 2004 có 28 cơ quan); một số sở, ngành thực hiện khoán biên chế và khoán kinh phí, tạo sự chủ động về tài chính trong hoạt động. Phát huy vai trò nhân dân làm chủ, các cấp ủy trong Đảng bộ thường xuyên quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động của các đoàn thể trực thuộc.
Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh được tách ra khỏi bộ máy Cơ quan Tỉnh đoàn Hải Dương, chuyển sang trực thuộc Đảng ủy Các cơ quan tỉnh từ ngày 01/01/2003 theo Quyết định số 380-QĐ/TU, ngày 24/12/2002 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “Về việc sắp xếp tổ chức bộ máy của Đoàn Các cơ quan tỉnh”. Với mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh đã thể hiện được vai trò là lực lượng xung kích, sáng tạo trong việc tổ chức các phong trào hoạt động, lôi cuốn được đông đảo đoàn viên thanh niên; tập trung củng cố các cơ sở đoàn, tiếp tục đưa công tác đoàn và phong trào thanh niên vào hoạt động có nề nếp; tổ chức thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua “Thanh niên tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Tháng thanh niên” do Trung ương Đoàn phát động; tham gia “Hội thi cán bộ Đoàn giỏi”, hội trại với chủ đề “Theo dấu chân Bác”. Các phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt động xã hội, tình nghĩa đã xây dựng tinh thần đoàn kết, thân ái trong thanh niên, không ngừng học tập, rèn luyện, phấn đấu đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp cách mạng. Hằng năm, có trên 75% số đoàn viên đạt tiêu chuẩn xuất sắc, trên 90% số cơ sở đoàn đạt vững mạnh 1. Trong 5 năm, các tổ chức cơ sở đoàn đã lựa chọn, giới thiệu được 760 đoàn viên ưu tú đi học lớp nguồn kết nạp Đảng, trong số đó có 383 đoàn viên được kết nạp vào Đảng. Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh được Tỉnh đoàn tặng cờ thi đua xuất sắc, Trung ương Đoàn tặng Bằng khen, là đơn vị có thành tích xuất sắc trong phong trào “Thanh niên tình nguyện” 5 năm liên tục giai đoạn 2000 - 2004. Trong 2 ngày 14-15/4/2004, Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh long trọng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ III, nhiệm kỳ 2004 - 2009. Đại hội đã bầu 25 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đoàn khóa III; đồng chí Trần Minh Đức được bầu giữ chức Bí thư. Tổng số tổ chức cơ sở đoàn là 53 với 3.472 đoàn viên (trong đó có 259 đoàn viên là đảng viên).
Công đoàn Viên chức tỉnh được thành lập theo Quyết định số 150/QĐ-LĐLĐ, ngày 25/11/2002 của Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh Hải Dương với 42 công đoàn cơ sở trực thuộc và 3.306 đoàn viên. Ban Chấp hành lâm thời gồm 11 đồng chí; đồng chí Nguyễn Văn Luận, Chủ tịch Công đoàn ngành Giáo dục được chỉ định giữ chức Chủ tịch lâm thời dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy Các cơ quan tỉnh. Ngày 10/4/2003, Công đoàn Viên chức tỉnh đã tổ chức thành công Đại hội đại biểu lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2003 - 2008. Đồng chí Nguyễn Hy được bầu giữ chức Chủ tịch. Ngay sau khi được thành lập và sau Đại hội, Công đoàn Viên chức tỉnh đã chỉ đạo các công đoàn cơ sở thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, chủ động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; phát động phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” gắn với cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức “Trung thành - Sáng tạo - Tận tụy - Gương mẫu”, phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”; vận động đoàn viên công đoàn tích cực tham gia cải cách hành chính. Hằng năm, 100% công đoàn cơ sở đã phối hợp với thủ trưởng cơ quan tổ chức thành công hội nghị cán bộ, công chức, bầu ban thanh tra nhân dân theo Nghị định số 71, 07 của Chính phủ; quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công chức; thường xuyên tổ chức thăm hỏi, hỗ trợ kịp thời cho công nhân viên chức, người lao động có hoàn cảnh khó khăn; vận động đoàn viên công đoàn tham gia xây dựng quỹ tình thương, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; thực hiện tốt chức năng bảo vệ lợi ích hợp pháp của cán bộ, công nhân viên chức, người lao động, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ quan, đơn vị. Hằng năm có 95% công đoàn cơ sở đạt danh hiệu vững mạnh trở lên, 45% cán bộ, công chức viên chức đạt danh hiệu lao động giỏi, 36% tập thể lao động xuất sắc; trở lên nhiều tập thể, công chức, viên chức được tặng bằng khen, giấy khen của các cấp, các ngành, đoàn thể.
Mặc dù đã có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, song công tác lãnh đạo các đoàn thể của một số cấp ủy cơ sở chưa được quan tâm đúng mức. Một số hoạt động của các đoàn thể chưa đáp ứng được nhu cầu của đoàn viên, hội viên.
Sau 5 năm triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh, các cấp ủy đảng đã bám sát các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ do Đại hội đề ra, lãnh đạo, động viên cán bộ, đảng viên khắc phục mọi khó khăn phấn đấu thực hiện và hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ, làm tốt chức năng tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh xây dựng, triển khai thực hiện thắng lợi các chương trình, đề án trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể; góp phần cùng cán bộ, đảng viên, nhân dân trong toàn tỉnh thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII. Chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tổ chức Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ VI.
III. TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG; XỨNG ĐÁNG VỚI VỊ TRÍ QUAN TRỌNG CỦA ĐẢNG BỘ CÁC CƠ QUAN TỈNH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, GÓP PHẦN XÂY DỰNG TỈNH HẢI DƯƠNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH GIAI ĐOẠN 2005 - 2010
Giai đoạn 2005 - 2010 có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như của tỉnh Hải Dương 10 năm đầu thế kỷ XXI; toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển; những thành tựu 20 năm đổi mới (1986 - 2006) làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình tạo thêm nhiều thuận lợi để đất nước ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên, Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.1
Hải Dương sau 9 năm tái lập (1997 - 2005) đã đạt được nhiều kết quả tích cực; tổng sản phẩm toàn tỉnh tăng 2,3 lần; GDP bình quân đầu người tăng 2,1 lần; thu ngân sách trên địa bàn toàn tỉnh tăng gấp 4,5 lần… Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh chưa cao và chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, sản xuất chưa gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm, sản xuất công nghiệp chưa có nhiều ngành công nghệ cao, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn thấp, chất lượng giáo dục đào tạo và khám chữa bệnh chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân… Chính vì vậy, mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân trong toàn tỉnh, trong đó có vai trò quan trọng của các tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh là cần tiếp tục đoàn kết, đổi mới, tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh tận dụng mọi thời cơ và chủ động tạo ra cơ hội mới, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập; tập trung giải quyết các vấn đề xã hội; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.2
Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 06/12/2004 của Bộ Chính trị về “Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng”, Kế hoạch số 65-KH/TU, ngày 29/3/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tiến hành Đại hội Đảng cấp cơ sở, cấp trên cơ sở, tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV”, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo thành công Đại hội Đảng cấp cơ sở nhiệm kỳ 2005-2008 và chuẩn bị các nội dung tổ chức Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2005-2010. Trong 2 ngày 04-5/11/2005, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh long trọng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VI, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Tham dự Đại hội có 150 đại biểu đại diện cho 2.827 đảng viên của 64 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ.
Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V, làm rõ nguyên nhân của thành tích và khuyết điểm; đề ra phương hướng, mục tiêu, giải pháp chủ yếu trong nhiệm kỳ 2005 - 2010 là: “Các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ phải nắm vững và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh ủy đề ra; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, đảng viên công nhân viên chức trong Đảng bộ khắc phục khó khăn, lao động sáng tạo, làm việc có năng suất và chất lượng, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, xây dựng Đảng bộ Các cơ quan tỉnh thực sự vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, xứng đáng với vị trí quan trọng của Đảng bộ trong sự nghiệp đổi mới, góp phần xây dựng tỉnh Hải Dương giàu mạnh, văn minh”1. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2010: Có 95% số chi, đảng bộ cơ sở đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, không có cơ sở yếu kém; có 99,5% đảng viên đủ tư cách, 80% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó có 35% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; kếp nạp 100 đảng viên trở lên; 100% cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn cơ quan, đơn vị văn hóa; 95% cơ quan, đơn vị đạt trong sạch vững mạnh; 100% công đoàn và tổ chức đoàn cơ sở đạt vững mạnh; Đảng bộ Các cơ quan tỉnh phấn đấu được Tỉnh ủy tặng Bằng khen.
Đại hội bầu 21 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ. Tại Hội nghị lần thứ nhất ngày 10/11/2005, Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu 05 đồng chí vào Ban Thường vụ gồm: Đồng chí Phùng Văn Hưng, Phạm Bá Tiếm, Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Thị Tỉnh, Đào Thanh Tân. Đồng chí Phùng Văn Hưng được bầu làm Bí thư, đồng chí Phạm Bá Tiếm được bầu làm Phó Bí thư. Trong nhiệm kỳ Đại hội, do có sự biến động về công tác cán bộ, Đảng ủy đã kiện toàn bổ sung 02 đồng chí vào Ban Chấp hành và 01 đồng chí vào Ban Thường vụ: Năm 2007 đồng chí Nguyễn Dương Thái, Ủy viên BCH Đảng bộ chuyển công tác sang Đảng bộ khác nên Đảng ủy đã kiện toàn bổ sung đồng chí Nguyễn Thúy Hà - Chánh Văn phòng Đảng ủy tham gia Ban Chấp hành; năm 2009 đồng chí Nguyễn Thị Tỉnh, ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Đảng ủy chuyển công tác về UBKT Tỉnh ủy nên Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã điều động đồng chí Lê Văn Tạo, Huyện ủy viên, Trưởng phòng Lao động, Thương binh & Xã hội huyện Cẩm Giàng về công tác tại Đảng ủy Các cơ quan tỉnh và chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy, được Ban Thường vụ Đảng ủy phân công làm Trưởng ban Tổ chức; có 05 đồng chí được đề bạt, điều động luân chuyển sang các Đảng bộ khác và 01 đồng chí về hưu. Đến tháng 12/2009 do có sự điều chuyển 09 tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng ủy Các cơ quan tỉnh về sinh hoạt tại Đảng bộ Khối doanh nghiệp tỉnh theo Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nên Đảng bộ còn 55 tổ chức cơ sở đảng với 312 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở và 2.853 đảng viên.
Căn cứ tình hình thực tiễn của Đảng bộ, tháng 4/2006, Đảng ủy đã chủ động xây dựng Chương trình hành động thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ VI bằng 5 đề án, trong đó tiếp tục thực hiện các đề án của Đảng ủy khóa V: Đề án số 02 về “Tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, chi bộ với công tác kiểm tra theo điều 30 Điều lệ Đảng”; Đề án số 03 về “Từng bước nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ”; Đề án số 05 về “Nâng cao chất lượng thực hiện Quy định số 54 của Bộ Chính trị, Quy định số 05 của Tỉnh ủy về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng”; đồng thời ban hành 02 đề án mới của Đảng ủy khóa VI: Đề án số 06 về “Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, danh nghiệp”; Đề án số 07 về “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đoàn TNCS Hồ Chí Minh các cơ quan tỉnh giai đoạn 2006 - 2010”.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ VI được triển khai thực hiện trong bối cảnh có nhiều biến động, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, của tỉnh Hải Dương và từng cán bộ, đảng viên, người lao động. Song đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức viên chức và người lao động trong Đảng bộ đã đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh đã đề ra.
Công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng luôn được các cấp ủy, chi bộ trong Đảng bộ quan tâm coi trọng; tập trung chỉ đạo, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ VI và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa X; làm tốt công tác tuyên truyền các ngày kỷ niệm lớn và các sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, của dân tộc: Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII; Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO; Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; về biển đảo và phát triển kinh tế biển; về đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình”. Việc học tập, quán triệt, tuyên truyền và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng được đổi mới một bước; đảm bảo tính định hướng, tính thời sự cao, đề cao hơn vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứngđầu cấp ủy trong việc chỉ đạo, cụ thể hóa Nghị quyết thành các chương trình, kế hoạch, đề án và triển khai, thực hiện tại cơ quan, đơn vị; tỷ lệ đảng viên tham gia học tập đạt 94-96%.
Điểm nổi bật trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhiệm kỳ này là: Đảng ủy tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc các cấp ủy, chi bộ cơ sở triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị (khóa X), Kế hoạch số 22-KH/TU, ngày 29/01/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Ban Thường vụ Đảng ủy đã ban hành Kế hoạch số 10-KH/ĐU, ngày 08/2/2007 triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thành lập Ban Chỉ đạo Cuộc vận động, xây dựng quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo; chỉ đạo cấp ủy, chi bộ cơ sở xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, xây dựng chuẩn mực đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong từng cơ quan, đơn vị theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức học tập các chuyên đề của cuộc vận động với tỷ lệ cán bộ, đảng viên tham gia đạt 94%; sau học tập cán bộ, đảng viên tự giác viết bài thu hoạch, liên hệ tự phê bình và phê bình, đăng ký làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Đảng ủy đã chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ cơ sở tổ chức 83 hội nghị lấy ý kiến tham gia của 1.638 quần chúng về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng bằng 2 hình thức: Tham gia tại hội nghị có 260 ý kiến; tham gia bằng phiếu là 1.378 ý kiến (có 222 lượt ý kiến góp ý cho tổ chức Đảng, 105 lượt ý kiến tham gia góp ý cho cơ quan, 637 lượt ý kiến tham gia cho cán bộ, đảng viên); tổ chức các hội thi, diễn đàn, xem phim và thuyết trình bộ phim tài liệu “Hồ Chí Minh - chân dung một con người”. Tháng 5/2007, Ban Thường vụ Đảng ủy phối hợp với Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh, Sở Văn hóa thông tin tổ chức chương trình liên hoan văn nghệ “Bài ca dâng Bác” với 127 tiết mục đăng ký tham gia từ 50 chi, đảng bộ cơ sở nhân kỷ niệm 117 năm ngày sinh nhật Bác; Ban Tổ chức liên hoan đã trao 08 giải A, 17 giải B, 23 giải C cho các tiết mục: Tốp ca (01 giải A, 09 giải B, 11 giải C); Tam ca + song ca (02 giải A, 03 giải B, 05 giải C); Đơn ca (05 giải A, 06 giải B, 07 giải C) và 17 giải tập thể (05 giải A, 06 giải B, 06 giải C); lựa chọn một số tiết mục tiêu biểu, đặc sắc công diễn, được phát sóng trực tiếp trên Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh.
Ban Thường vụ Đảng ủy đã ban hành Kế hoạch số 20-KH/ĐU, ngày 29/02/2008 tổ chức Hội thi “Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” triển khai trong toàn Đảng bộ. Kết quả, có 41/62 chi, đảng bộ tổ chức hội thi ở cơ sở, lựa chọn và đăng ký 55 thí sinh tham gia Hội thi do Đảng ủy tổ chức; qua vòng thi sơ khảo trong trong 3 ngày, Ban Tổ chức Hội thi đã chọn ra 06 thí sinh xuất sắc nhất tham gia đêm thi chung khảo được truyền hình trực tiếp trên sóng Phát thanh & Truyền hình tỉnh vào tối ngày 17/7/2008; tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Cuộc vận động và gặp mặt, biểu dương, khen thưởng 38 tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được lựa chọn từ 38 chi, đảng bộ cơ sở; bình chọn 02 tập thể và 03 cá nhân tham dự hội nghị gặp mặt cấp tỉnh. Liên hoan văn nghệ, gặp mặt gương điển hình tiêu biểu và Hội thi kể chuyện là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, ý nghĩa đối với cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, quần chúng về tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Sau 4 năm triển khai thực hiện cuộc vận động, bước đầu đã có sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng và hành động trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đổi mới phong cách, lề lối làm việc, nêu gương người tốt, việc tốt ở các cơ quan, đơn vị, góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và quần chúng. Kết quả tổng kết 4 năm thực hiện cuộc vận động trong toàn Đảng bộ, Ban Thường vụ Đảng ủy đã xét khen thưởng cho 31 tập thể và 50 cá nhân có thành tích tiêu biểu ở các chi, đảng bộ cơ sở; đề nghị Ban Chỉ đạo cuộc vận động tỉnh khen thưởng cho 01 tập thể, 02 cá nhân tiêu biểu (trong đó 01 cá nhân đề nghị được cấp Trung ương khen thưởng).
Việc đưa thông tin xuống cơ sở được Đảng ủy quan tâm thực hiện theo quy định của Tỉnh ủy. Đội ngũ báo cáo viên trong Đảng bộ thường xuyên được kiện toàn với số lượng 139 đồng chí; hằng tháng đều được tham dự Hội nghị Báo cáo viên do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức; nhiều đồng chí đã phát huy được vai trò trong việc tuyên truyền, kịp thời cung cấp thông tin về tình hình thời sự quốc tế, trong nước, trong tỉnh và chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ, đảng viên, quần chúng ở cơ quan, đơn vị; 100% các chi bộ được Đảng ủy cấp bản tin nội bộ phục vụ sinh hoạt thường kỳ; ngoài ra, các tổ chức đảng cơ sở đã mua khá đầy đủ các loại báo, tạp chí, chuyên ngành để phục vụ công tác nghiên cứu, tham khảo, nắm bắt thông tin. Việc nắm bắt tình hình tư tưởng, phán ánh dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên và quần chúng được Đảng ủy và các cấp ủy, chi bộ cơ sở quan tâm chỉ đạo thực hiện. Nhiều cấp ủy đã có biện pháp giải quyết kịp thời những kiến nghị chính đáng của cán bộ, đảng viên và quần chúng trên cơ sở quy định của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Công tác giáo dục lý luận chính trị tiếp tục được Đảng ủy thực hiện theo khung chương trình do Ban Tuyên giáo Trung ương quy định và Đề án số 05 của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa V. Kết quả, trong nhiệm kỳ đã mở được 17 lớp bồi dưỡng kết nạp đảng cho 1.302 quần chúng ưu tú, 9 lớp bồi dưỡng đảng viên mới cho 788 đồng chí, 01 lớp sơ cấp lý luận chính trị cho 48 đảng viên, 11 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 1.384 cán bộ công đoàn, cán bộ đoàn và cán bộ hội cựu chiến binh, 05 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng cho 1.735 cấp ủy viên trong toàn Đảng bộ. Đến năm 2010, 100% đảng viên trong Đảng bộ có trình độ lý luận chính trị sơ cấp, 356 đảng viên có trình độ trung cấp, 385 đảng viên có trình độ cao cấp, 100% các đồng chí lãnh đạo quản lý các sở, ngành đều có trình độ cử nhận chính trị hoặc cao cấp chính trị1. Công tác tổ chức, quản lý các lớp học được coi trọng và đánh giá nghiêm túc, phản ánh đúng thực tiễn. Nhiều cấp ủy cơ sở đã quan tâm, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên tham gia học tập, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, quản lý nhà nước, lý luận chính trị theo quy định, đảm bảo tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, một số cấp ủy vẫn chưa quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên và quần chúng; việc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các đề án của Đảng ủy ở một số cơ sở đảng còn chậm, chất lượng thấp; việc xây dựng chương trình hành động còn sơ sài, chưa vận dụng vào đặc điểm cụ thể của cơ quan, đơn vị; công tác tuyên truyền miệng còn hạn chế, việc nắm bắt và phản ánh diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, quần chúng còn chưa kịp thời; kết quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” còn hạn chế, nhất là việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên.
Công tác lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng thực hiện nhiệm vụ chính trị: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao các cấp ủy, chi bộ cơ sở đã cùng với Ban cán sự đảng, Đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan, đơn vị lãnh đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức, lao động phát huy tinh thần trách nhiệm, tích cực tham mưu, triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao; chủ động tham mưu, đề xuất các chủ trương, biện pháp để Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội với mục tiêu chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn mức bình quân chung của cả nước, tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu đưa Hải Dương cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV. Kết quả đạt được thể hiện trên một số lĩnh vực cơ bản đó là: Kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá; tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân 9,7%/năm; sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối ổn định, giá trị sản xuất bình quân tăng 2,1% năm; cơ cấu kinh tế nông thôn tiếp tục có bước chuyển dịch tích cực, hạ tầng kỹ thuật được cải thiện; công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 12,9% năm; các ngành dịch vụ phát triển khá nhanh, giá trị sản xuất tăng bình quân 14,8% năm, đáp ứng tốt hơn cho sản xuất và tiêu dùng; thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng khá, bình quân 9,15% năm, ước đạt 4.730 tỷ đồng năm 2010; hoạt động tài chính, kho bạc, tín dụng, ngân hàng tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc lưu thông tiền tệ, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; hoạt động khoa học, công nghệ, quản lý, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường có bước chuyển biến nhất định; lĩnh vực giáo dục tiếp tục giữ vững thành tích và phát triển; công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân được quan tâm; công tác xã hội hóa được đẩy mạnh, thu hút nhiều nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục, y tế; đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng cao; phong trào thể dục, thể thao phát triển mạnh, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở được quan tâm đầu tư; công tác lao động, giải quyết việc làm được đẩy mạnh; thông tin & truyền thông tiếp tục phát triển; hoạt động của các báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình đóng góp tích cực vào công tác tuyên truyền, định hướng xã hội, động viên nguồn lực cho phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương; các hoạt động thanh tra, tư pháp, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được duy trì tốt; các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, nhân đạo, từ thiện được xã hội quan tâm, tham gia có hiệu quả; công tác xây dựng Đảng, chính quyền, hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố vững chắc.
Tuy nhiên, trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở một số cơ quan, đơn vị sự phối hợp điều hành giữa cấp ủy với thủ trưởng cơ quan còn chưa cụ thể nên việc tham mưu, đề xuất cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trên một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn lúng túng, nhiều sai phạm chậm được xử lý hoặc xử lý thiếu cương quyết; việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính chưa thực sự có hiệu quả, còn biểu hiện một của hình thức, phiền hà còn xảy ra; công tác phòng, chống tham nhũng, lãnh phí còn hạn chế.
Công tác tổ chức xây dựng đảng trong Đảng bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Sau Đại hội, Đảng ủy và các cấp ủy, chi bộ cơ sở đã xây dựng Quy chế làm việc của cấp ủy, chi bộ; trong quá trình thực hiện đã sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Điều lệ Đảng khóa X, nhằm đảm bảo sự thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện trong Đảng bộ. Nhiều cấp ủy thực hiện khá nghiêm túc quy chế đã ban hành, phát huy được trí tuệ, trách nhiệm của cá nhân cấp ủy viên, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy.
Việc củng cố, kiện toàn, sắp xếp các tổ chức cơ sở đảng được Đảng ủy coi trọng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” và sau khi có Nghị định 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Đảng ủy đã quyết định tách và thành lập mới 7 tổ chức cơ sở đảng, đổi tên 3 tổ chức, sáp nhập 7 tổ chức, giải thể 2 chi bộ (năm 2006 ra quyết định đổi tên Chi bộ chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển thành Chi bộ Ngân hàng phát triển Hải Dương; năm 2008 ra quyết định thành lập mới 02 chi bộ cơ sở (Chi bộ Công ty Xổ số kiến thiết tỉnh, Chi bộ Thi hành án dân sự tỉnh); đổi tên Chi bộ Sở Bưu chính viễn thông thành Chi bộ Sở Thông tin và Truyền thông; giải thể Chi bộ Hội Nhà báo tỉnh; sáp nhập Đảng bộ Sở Thương mại và Du lịch và Đảng bộ Sở Công nghiệp thành Đảng bộ Sở Công Thương; sáp nhập Chi bộ Ban Thi đua khen thưởng, Chi bộ Ban Tôn giáo vào Chi bộ Sở Nội vụ và nâng cấp thành Đảng bộ Sở Nội vụ, sáp nhập Đảng bộ Sở Văn hóa thông tin và Đảng bộ Sở Thể dục, thể thao thành Đảng bộ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và chỉ định cấp ủy lâm thời ở các chi, đảng bộ mới sáp nhập, nâng cấp, thành lập mới; đồng thời chỉ đạo các cấp ủy cơ sở mới ổn định tổ chức, chuẩn bị các điều kiện để tiến hành Đại hội theo quy định của Điều lệ Đảng; tiến hành chuyển giao Chi bộ Hưng Hải sang trực thuộc Đảng bộ Khối doanh nghiệp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; năm 2009 ra quyết định thành lập mới và chỉ định cấp ủy lâm thời 02 chi bộ (Chi bộ Văn phòng Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh; Chi bộ Công ty Truyền hình Cáp Hải Dương; ra quyết định nâng cấp 01 chi bộ cơ sở thành đảng bộ cơ sở (Đảng bộ Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết); tiến hành bàn giao 09 tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp về Đảng ủy Khối doanh nghiệp tỉnh theo Quyết định số 986-QĐ/TU, ngày 28/10/2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc điều chuyển tổ chức cơ sở đảng (Đảng bộ Bưu điện tỉnh, Đảng bộ Viễn thông Hải Dương, Đảng bộ Công ty Điện lực Hải Dương, Đảng bộ Công ty Bảo hiểm Bảo Việt, Đảng bộ Ban Quản lý các khu công nghiệp, Chi bộ Công ty Tư vấn xây dựng thủy lợi, Đảng bộ Công ty Xổ số kiến thiết tỉnh, Đảng bộ Công ty Truyền hình Cáp Hải Dương, Đảng bộ Công ty Bảo hiểm Nhân thọ); tham gia ý kiến nhận xét 67 cán bộ là đảng viên của Đảng bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; kịp thời bổ sung cấp ủy viên, ủy viên ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở khi có sự biến động: Ra quyết định chuẩn y 19 bí thư, 13 phó bí thư, chỉ định bổ sung 54 cấp ủy viên cơ sở, 11 ủy viên ủy ban kiểm tra; 100% bí thư cấp ủy cơ sở là lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan, đơn vị. Năm 2007, Ban Thường vụ Đảng ủy đã tiến hành quy hoạch nguồn BCH, BTV, Bí thư, Phó Bí thư, trưởng, phó các ban xây dựng Đảng của Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đảm bảo đúng quy trình, hướng dẫn của Ban Tổ chức Tỉnh ủy; chỉ đạo các cấp ủy cơ sở phối hợp với lãnh đạo cơ quan triển khai xây dựng nguồn quy hoạch cán bộ ở cơ quan, đơn vị. Về cơ bản đội ngũ cấp ủy và cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn và trình độ lý luận chính trị, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hằng năm, hầu hết các đồng chí cấp ủy viên được đánh giá xếp loại đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó nhiều đồng chí được bình chọn là đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Quán triệt Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”, Đề án số 03 của Đảng ủy khóa V về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ”; Ban Thường vụ Đảng ủy đã cử các đồng chí cấp ủy viên chuyên trách của Đảng ủy tới dự sinh hoạt tại các chi, đảng bộ cơ sở. Nhiều cấp ủy cơ sở đã chú trọng cải tiến nội dung sinh hoạt và phương thức lãnh đạo nên hoạt động của chi, đảng bộ cơ sở có chuyển biến, tiến bộ rõ nét; nguyên tắc tập trung dân chủ được chấp hành khá tốt; chế độ tự phê bình và phê bình được tiến hành thường xuyên; một số chi bộ đã tổ chức sinh hoạt chuyên đề.
Phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh được các chi, đảng bộ cơ sở triển khai thực hiện nghiêm túc. Hằng năm, các tổ chức cơ sở đảng đều đăng ký thi đua về Đảng ủy; số cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh bình quân hằng năm chiếm tỷ lệ 93,4%; có 14 đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt trong sạch vững mạnh có thành tích tiêu biểu được Tỉnh ủy tặng Cờ gồm (Đảng bộ Điện lực, Đảng bộ Sở Khoa học & Công nghệ, Đảng bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Đảng bộ Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Chi bộ Ban Tổ chức chính quyền tỉnh, Chi bộ UBMTTQ tỉnh, Chi bộ Hội LHPN tỉnh, Đảng bộ Tỉnh đoàn TN, Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước tỉnh, Đảng bộ Kho bạc Nhà nước tỉnh, Đảng bộ Sở Lao động, TB&XH, Đảng bộ Sở GTVT, Đảng bộ Bưu điện, Đảng bộ Sở TDTT), 40 lượt tổ chức cơ sở đảng được Tỉnh ủy tặng Bằng khen, nhiều tổ chức cơ sở đảng giữ vững được thành tích liên tục.
Thực hiện Điều lệ Đảng, Ban Thường vụ Đảng ủy đã tập trung chỉ đạo tổ chức đại hội chi bộ trong các đảng bộ cơ sở; tiến hành kiểm điểm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ từ năm 2005 - 2008, bổ sung nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng đến năm 2010; đồng thời tổ chức Hội nghị giữa nhiệm kỳ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ VI; thí điểm tổ chức đại hội cơ sở bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư cấp ủy theo Kế hoạch số 79-KH/TU, ngày 18/5/2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; lựa chọn Đảng bộ Sở Nội vụ và Đảng bộ Bảo hiểm xã hội tỉnh làm điểm đại hội Đảng cấp cơ sở nhiệm kỳ 2010-2015.
Công tác quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ cho đảng viên, thực hiện nghiệp vụ đảng viên và bảo vệ chính trị nội bộ ở các chi, đảng bộ cơ sở được thực hiện có nền nếp, chặt chẽ hơn theo Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 12/10/2004 của Ban Bí thư về “Kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh”. Trong 5 năm (2005-2010), toàn Đảng bộ kết nạp được 777 đảng viên mới, vượt chỉ tiêu Đại hội VI đề ra (tăng 164 đảng viên, vượt 37,3% so với nhiệm kỳ V), trong đó là đoàn viên 589 đồng chí chiếm 75,8%; trình độ từ cao đẳng trở lên là 599 đồng chí chiếm 77,1%; nữ 306 đồng chí chiếm 39,4%; chuyển đảng chính thức cho 741 đảng viên. Việc đánh giá, phân tích chất lượng đảng viên hàng năm được chú trọng; số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên chiếm 96%, vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra (năm 2006, số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 94,5%; năm 2007 là 98,3%; năm 2008 là 94,9% và năm 2009 là 98,9%).
Công tác xây dựng tổ chức đảng trong nhiệm kỳ tuy đã đạt được nhiều kết quả tiến bộ, song ở một số tổ chức cơ sở đảng vẫn còn những hạn chế trong việc vận dụng cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Một số cấp ủy thực hiện quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ chưa nghiêm túc; chưa quan tâm đến đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc. Chế độ sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ chưa đều, nội dung sinh hoạt chậm đổi mới, nhiều chi bộ không tổ chức sinh hoạt chuyên đề, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh hàng năm chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Công tác quản lý, rèn luyện đảng viên ở một số đơn vị còn hạn chế dẫn đến không ít đảng viên chưa tích cực trong thực hiện nhiệm vụ được giao, chưa thực sự gương mẫu, còn có biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, vi phạm tư cách đảng viên. Việc phân tích chất lượng đảng viên ở không ít cơ sở còn hình thức, chưa phản ánh đúng thực chất.
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng được cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT 2 cấp trong Đảng bộ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng ủy đã ban hành, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra cho phù hợp với Điều lệ Đảng khóa X; tiếp tục triển khai thực hiện Đề án số 03 của Đảng ủy khóa V về “Tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, chi bộ với công tác kiểm tra theo điều 30 của Điều lệ Đảng”; xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát của Đảng ủy toàn khóa và hàng năm; chỉ đạo cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của Ủy ban kiểm tra, xây dựng chương trình, tổ chức thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng; định kỳ nghe và cho ý kiến về tình hình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ và hoạt động của Ủy ban Kiểm tra.
Trong 5 năm, Đảng ủy đã xây dựng và tổ chức thực hiện 9 cuộc kiểm tra theo chương trình đề ra tại 62 tổ chức cơ sở đảng (tăng 1 cuộc và 14 cơ sở so với nhiệm kỳ V); nội dung kiểm tra tập trung vào việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chương trình hành động và một số đề án của Tỉnh ủy, của Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã ban hành. Ban Thường vụ Đảng ủy đã tổ chức 3 cuộc giám sát theo chuyên đề tại 136 lượt tổ chức cơ sở đảng về thực hiện giai đoạn 1 Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết Hội nghị TW5, TW7 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” gắn với việc thực hiện Đề án số 07 của Đảng ủy về “Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Các cơ quan tỉnh giai đoạn 2006 - 2010”. Tổ chức 5 cuộc kiểm tra theo kế hoạch của Tỉnh ủy tại 36 tổ chức cơ sở đảng. Sau các cuộc kiểm tra, giám sát, Đảng ủy đã có những đánh giá, kết luận những mặt làm được, những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm, và yêu cầu các nội dung cần tập trung thực hiện cụ thể để thông báo đến các tổ chức cơ sở đảng được kiểm tra, giám sát.
Việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của các cấp ủy, chi bộ cơ sở đã có tiến bộ, 100% cấp ủy cơ sở đã xây dựng được chương trình kiểm tra và tổ chức các cuộc kiểm tra theo chương trình đề ra hằng năm, tập trung vào các nội dung: Việc triển khai thực hiện nghị quyết của đảng ủy và cấp ủy cấp trên, thực hiện chế độ, nội dung sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; thực hiện luật phòng chống tham nhũng, luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao. Công tác kiểm tra của nhiều chi bộ cơ sở được thực hiện nghiêm túc theo chương trình xây dựng đầu năm; quy trình, chất lượng kiểm tra thực hiện khá tốt. Một số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở đã bước đầu thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra đối với đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao và việc giữ gìn đạo đức, lối sống. Kết quả, các cấp ủy cơ sở đã kiểm tra 965 lượt chi bộ, đảng bộ bộ phận (tăng 276 lượt so nhiệm kỳ V) và 966 đảng viên.
Ủy ban kiểm tra 2 cấp trong Đảng bộ đã chủ động xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát của cấp mình và tham mưu giúp cấp ủy xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy; tổ chức các cuộc kiểm tra, giám sát theo chương trình của ủy ban kiểm tra đề ra. Kết quả đã kiểm tra 368 tổ chức cơ sở đảng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; 01 cuộc kiểm tra tài chính của cấp ủy cùng cấp và 635 tổ chức đảng về thu, nộp, sử dụng đảng phí; kiển tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng tại 08 đảng ủy cơ sở; kiểm tra 01 chi bộ khi có dấu hiệu vi phạm (Chi bộ Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng tỉnh); kiểm tra 01 đảng viên có dấu hiệu vi phạm (Đồng chí Vũ Quang Ánh, Bí thư Chi bộ Xây dựng Đảng, Đảng bộ Trường Chính trị tỉnh) vi phạm trong thi tuyển công chức năm 2008; giải quyết 09 đơn tố cáo đối với đảng viên và tổ chức đảng; giải quyết 01 đơn khiếu nại của đảng viên; UBKT Đảng ủy và một số UBKT cơ sở đã phân công thành viên thực hiện nhiệm vụ giám sát đối với tổ chức đảng cấp dưới, cấp ủy viên cùng cấp và cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý; đã tổ chức giám sát theo chuyên đề 76 đảng viên và 64 tổ chức đảng.
Các tổ chức đảng có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật 19 đảng viên. Hình thức kỷ luật: Khai trừ 04, cảnh cáo 06, khiển trách 09 (giảm 15 đảng viên so với nhiệm kỳ V) do vi phạm quy định của Nhà nước, của ngành; vi phạm đạo đức, lối sống; thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ; tham ô tài sản; không thực hiện nghiêm túc nghị quyết của cấp ủy; vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình. Việc thi hành kỷ luật đảm bảo nguyên tắc, thủ tục, giữ vững kỷ luật của Đảng. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng trong Đảng bộ đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng và thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng, đưa công tác xây dựng Đảng trong toàn Đảng bộ đi vào nền nếp.
Tuy vậy, một số cấp ủy, tổ chức đảng vẫn chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; một số cuộc kiểm tra thực hiện chưa đảm bảo quy trình, chất lượng và hiệu quả thấp, nhiều sai lầm, khuyết điểm của đảng viên và tổ chức đảng chưa được phát hiện; công tác giám sát chuyên đề, giám sát định kỳ ở nhiều cấp ủy, chi bộ và Ủy ban kiểm tra cơ sở chưa được thực hiện, là khâu yếu nhất chưa được khắc phục. UBKT các cấp trong Đảng bộ chưa chủ động phát hiện, tiến hành kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm, còn lúng túng trong triển khai thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Hoạt động của các đoàn thể được các cấp ủy đảng trong Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng ủy đã xây dựng Đề án số 06- ĐA/ĐU về “Nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp giai đoạn 2006 - 2010” và Đề án số 07- ĐA/ĐU về “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh các cơ quan tỉnh” và triển khai thực hiện trong toàn Đảng bộ; ban hành Chỉ thị để lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức đại hội các đoàn thể theo nhiệm kỳ; xây dựng Đề án, chuẩn bị các điều kiện để thành lập Hội Cựu chiến binh Các cơ quan tỉnh. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy, chi bộ, các đoàn thể trong Đảng bộ đã từng bước đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng các mặt công tác, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ VI.
Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh đã chủ động xây dựng chương trình hành động thực hiện Đề án số 07 của Đảng ủy khóa VI triển khai tới các cơ sở đoàn trực thuộc; các phong trào hành động cách mạng của Đoàn, tuyên truyền, giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống cho đoàn viên thanh niên đã có sự đổi mới thông qua cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; đợt sinh hoạt chính trị với chủ đề “Tiếp lửa truyền thống mãi mãi tuổi 20”, “Uống nước nhớ nguồn”; phong trào “5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; 4 đồng hành cùng thanh niên lập thân, lập nghiệp”; “Tháng thanh niên”, mỗi tổ chức cơ sở đoàn đều xây dựng được 1 công trình, phần việc thanh niên; phong trào thanh niên tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng tiếp tục được duy trì với mô hình “Ngày thứ 7 tình nghĩa”, “Tiếp sức mùa thi”; các hoạt động giao lưu, kết nghĩa, tặng quà cho các đối tượng chính sách, gia đình khó khăn, tặng công trình thanh niên, khám bệnh và phát thuốc miễn phí, hiến máu tình nguyện của Đoàn thanh niên các cấp đã để lại những dấu ấn tốt đẹp trong đời sống cộng đồng. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đoàn và Đoàn tham gia xây dựng Đảng được quan tâm; trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh đã ra quyết định thành lập mới 03 chi đoàn, giải thể 05 cơ sở đoàn, bàn giao 09 cơ sở đoàn về sinh hoạt với Đoàn thanh niên Khối doanh nghiệp tỉnh; các cấp bộ đoàn đã lựa chọn, giới thiệu được 1.036 đoàn viên ưu tú cho Đảng, trong đó có 589 đoàn viên được kết nạp vào Đảng; hàng năm bình quân có 97,5% số tổ chức cơ sở đoàn đạt danh hiệu vững mạnh. Tháng 6/2007, Đoàn thanh niên Các cơ quan tỉnh đã tổ chức thành công Đại hội lần thứ IV, nhiệm kỳ 2007-2012. Đồng chí Trần Minh Đức được bầu làm Bí thư. Đến năm 2010, đồng chí Trần Minh Đức chuyển công tác, đồng chí Nguyễn Thị Thu Huyền được bầu làm Bí thư. Tổng số tổ chức cơ sở Đoàn là 44 với 5.408 đoàn viên (có 615 đoàn viên là đảng viên).
Công đoàn Viên chức tỉnh đã tập trung chỉ đạo công đoàn cơ sở thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam và chủ động triển khai thực hiện Đề án số 06 của Đảng ủy Các cơ quan tỉnh khóa VI. Các cấp công đoàn trong Đảng bộ đã tuyên truyền, giáo dục cho đoàn viên về các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết Hội nghị TW 6, TW7 khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhận Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; phối hợp với thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức hội nghị cán bộ công chức hằng năm đảm bảo nội dung; các phong trào thi đua yêu nước “Lao động giỏi”, nữ công nhân viên chức, lao động “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức “Trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu” tiếp tục được đẩy mạnh; các quỹ hoạt động tình nghĩa, đền ơn đáp nghĩa được duy trì và thực hiện có hiệu quả với số tiền thăm hỏi, động viên lên đến trên 100 triệu/năm; phong trào hiến máu tình nguyện được đoàn viên hưởng ứng tích cực. Hằng năm có từ 95% - 100% các tổ chức công đoàn cơ sở được Công đoàn Viên chức tỉnh xếp loại vững mạnh. Trong nhiệm kỳ, Công đoàn Viên chức tỉnh được Liên đoàn Lao động tỉnh và Công đoàn Viên chức Việt Nam tặng cờ thi đua. Trong 2 ngày 18-19/02/2008, Công đoàn Viên chức tỉnh đã tổ chức thành công Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2008 - 2013. Ban Chấp hành Công đoàn Viên chức tỉnh gồm 15 ủy viên; đồng chí Vũ Huy Cẩn được bầu làm Chủ tịch. Tổng số Công đoàn cơ sở là 52 với 4.200 đoàn viên.
Hội Cựu chiến binh Các cơ quan tỉnh được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 7/2008 sau một thời gian tích cực vận động thành lập của Ban vận động Đảng ủy Các cơ quan tỉnh và Thông báo số 666-TB/TU, ngày 07/3/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy theo Quyết định số 153-QĐ/CCB, ngày 10/6/2008 của Ban Thường vụ Hội Cựu chiến binh tỉnh. Ban Chấp hành lâm thời gồm 7 đồng chí; đồng chí Phạm Bá Tiếm, Phó Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh làm Chủ tịch lâm thời. Ngay sau khi được thành lập, BCH lâm thời đã chủ động xây dựng kế hoạch và tham mưu cho Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có đủ điều kiện tiến hành thành lập Hội Cựu chiến binh cơ sở; cùng với việc tiếp nhận 08 Hội Cựu chiến binh cơ sở trực thuộc Hội Cựu chiến binh tỉnh với tổng số 191 hội viên và thành lập mới 27 cơ sở Hội với 776 hội viên đã nâng tổng số Hội Cựu chiến binh cơ sở thuộc Hội Cựu chiến binh Các cơ quan tỉnh là 35 tổ chức với 967 hội viên. Do mới được thành lập nên hoạt động của Hội Cựu chiến binh Các cơ quan tỉnh cũng gặp không ít khó khăn; song các cấp hội đã nhanh chóng kiện toàn, củng cố tổ chức, bộ máy, xây dựng chương trình công tác, từng bước đưa hoạt động của Hội Cựu chiến binh đi vào nền nếp theo Điều lệ Hội và Pháp lệnh Hội Cựu chiến binh Việt Nam; tích cực tuyên truyền, vận động hội viên phát huy truyền thống, bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, quan tâm giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ; tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng; vận động hội viên đóng góp xây dựng quỹ tình nghĩa, thăm, tặng quà cho cựu chiến binh trực tiếp chiến đấu ở chiến trường Điện Biên Phủ có hoàn cảnh khó khăn tại huyện Thanh Hà; tham gia ủng hộ xây dựng quỹ tình nghĩa, “Quỹ Vì Trường Sa thân yêu”, “Quỹ xây dựng khu hành lễ Nghĩa trang Đường 9”, “Ủng hộ đồng bào bão lụt” do các cấp phát động gần 90 triệu đồng. Tại Hội nghị gặp mặt điển hình tiên tiến làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của Đảng bộ có 09 cá nhân hội viên Cựu chiến binh Các cơ quan tỉnh được Ban Thường vụ Đảng ủy biểu dương, khen thưởng. Ngày 29/7/2009, Hội Cựu chiến binh Các cơ quan tỉnh đã tổ chức thành công Đại hội lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2009 - 2014. Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh gồm 15 ủy viên; đồng chí Phạm Bá Tiếm được bầu làm Chủ tịch.
Tuy nhiên, nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể chưa có sự sáng tạo, chưa theo kịp với tình hình thực tiễn, chưa đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng, khả năng của đoàn viên, hội viên; việc thực hiện Quy chế dân chủ ở một số cơ quan, đơn vị còn hình thức; tỷ lệ tổ chức cơ sở đoàn vững mạnh chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội VI Đảng bộ đề ra.
Ngày 30/3/2010, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 296-QĐ/TW về đổi mẫu dấu của các tổ chức đảng trong toàn Đảng, theo đó Đảng ủy đã lập danh sách các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, các ban xây dựng đảng, văn phòng, UBKT Đảng ủy, các đoàn thể trực thuộc được đổi mẫu dấu và giới thiệu đến Công an tỉnh làm thủ tục khắc dấu mới và đổi dấu cũ đảm bảo kết thúc trước ngày 30/6/2010 theo quy định; 55/55 tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ đã được đổi mẫu dấu. Ngay sau khi có dấu mới, các cấp ủy, chi bộ, các ban xây dựng đảng, văn phòng, UBKT Đảng ủy, các đoàn thể trực thuộc Đảng ủy đã thực hiện giới thiệu mẫu con dấu mới; đồng thời quản lý, sử dụng và bảo quản con dấu theo chế độ Mật, đúng quy định của Chính phủ và các quy định hiện hành của Đảng. Căn cứ Quy định 293-QĐ/TW, ngày 23/3/2010 của Ban Bí thư “Quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh, thành phố” và Quyết định số 1221- QĐ/TU, ngày 22/7/2010 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh được đổi tên thành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh.
Tháng 8/2010, Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều động đồng chí Phùng Văn Hưng về công tác tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy và bổ nhiệm giữ chức Phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy; đồng thời điều động đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Bích, Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn thanh niên về công tác tại Đảng ủy Khối và giới thiệu để Đại hội bầu làm Bí thư Đảng ủy Khối; sau Đại hội đồng chí Phạm Bá Tiếm, đồng chí Nguyễn Văn Điệp nghỉ chờ hưu.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh và các cấp ủy cơ sở, sự nỗ lực phấn đấu cao của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức viên chức và người lao động trong toàn Đảng bộ đã chung sức, đồng lòng, đoàn kết, thống nhất nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và của Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh, đóng góp tích cực vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội chung toàn tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 2005 - 2010. Thắng lợi này là tiền đề để Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.
Chương VII
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH HẢI DƯƠNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, SỚM ĐƯA HẢI DƯƠNG TRỞ THÀNH TỈNH CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI (2010 - 2020)
Trong 05 năm (2006 – 2010), mặc dù bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng, đáng tự hào. Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 10 năm (2001 – 2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn, tình hình thế giới sẽ tiếp tục có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường với những tác động sâu rộng, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng chưa vững chắc, hiệu quả đầu tư thấp và tính ổn định không cao; chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ còn kém sức cạnh tranh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm…; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế, bất cập.1
Trong bối cảnh chung của đất nước, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương đã phát huy lợi thế, khắc phục khó khăn, đạt được những kết quả quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực: Kinh tế tăng trưởng khá, đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước; văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ; an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác xây dựng Đảng và hoạt động của hệ thống chính trị có chuyển biến tích cực. Những thành tựu này là tiền đề để thực hiện thắng lợi các mục tiêu lớn hơn của tỉnh đó là sớm đưa Hải Dương thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.1
Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 100-KH/TU, ngày 05/11/2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, từ ngày 16-18/8/2010, Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh long trọng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 với chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết, dân chủ và trí tuệ, xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch vững mạnh”. Dự đại hội có 168 đại biểu đại diện cho 2.937 đảng viên của 55 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ Khối.
Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VI, làm rõ những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế, khuyến điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; đồng thời xác định phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ công tác xây dựng đảng của Đảng bộ Khối trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 đó là: “Tập trung xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có trí tuệ, có ý thức trách nhiệm và có đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; đẩy mạnh việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hành động của các đoàn thể, nâng cao chất lượng và hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước; xây dựng các chi, đảng bộ cơ sở và Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh thực sự trong sạch vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của tỉnh”. Một số mục tiêu cụ thể được Đại hội thông qua là: Hằng năm, phấn đấu có 95% trở lên số chi, bộ đảng cơ sở đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, không có cơ sở yếu kém; có 98% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; kết nạp từ 100 đảng viên trở lên; có trên 95% tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh cơ sở đạt vững mạnh; xây dựng cơ quan, đơn vị và các đoàn thể trong Đảng bộ vững mạnh; phấn đấu trong nhiệm kỳ Đảng bộ Khối được Tỉnh ủy tặng Bằng khen. Cùng với đó, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm để thực hiện trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 là: Tăng cường công tác chính trị tư tưởng, tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tập trung lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động nâng cao ý thức, trách nhiệm, khắc phục khó khăn, phát huy năng lực, sở trường phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; phát huy dân chủ, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đoàn thể.
Đại hội đã bầu 21 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh lần thứ VII, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối khóa VII đã bầu 05 đồng chí vào Ban Thường vụ Đảng ủy Khối gồm: Đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Bích, Lê Văn Tạo, Đào Thanh Tân, Nguyễn Thúy Hà, Vũ Thị Phương. Đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Bích được bầu làm Bí thư; các đồng chí Lê Văn Tạo và Đào Thanh Tân được bầu làm Phó Bí thư; Ban Chấp hành Đảng bộ Khối đã bầu 07 đồng chí tham gia UBKT Đảng ủy Khối khóa VII và bầu đồng chí Lê Văn Tạo, giữ chức Chủ nhiệm, đồng chí Vũ Thị Chuyền, Đảng ủy viên được UBKT Đảng ủy Khối bầu giữ chức Phó Chủ nhiệm. Tháng 9/2014, đồng chí Nguyễn Thị Thu Huyền được kiện toàn bổ sung vào Ban Thường vụ và bổ nhiệm giữ chức Trưởng ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối thay đồng chí Đào Thanh Tân - Phó Bí thư Đảng ủy Khối thôi kiêm Trưởng Ban Tuyên giáo. Toàn Đảng bộ có 57 tổ chức cơ sở đảng (gồm 39 đảng bộ, 18 chi bộ), 419 cấp ủy viên cơ sở và 3.534 đảng viên. Cơ quan chuyên trách của Đảng ủy Khối có 19 biên chế, trong đó (Thường trực 3; Ban Tổ chức: 03; Ban Tuyên giáo: 03; UBKT: 02; Văn phòng: 05; Đoàn Khối: 02; Hội CCB Khối: 01).
Ngay sau Đại hội, Đảng ủy Khối đã kịp thời xây dựng, ban hành quy chế làm việc của cấp ủy, ủy ban kiểm tra, chương trình làm việc, chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa của cấp ủy nhiệm kỳ 2010-2015 và Chương trình hành động số 07-CTr/ĐUK, ngày 22/6/2011 thực hiện Nghị quyết Đại hội; tập trung lãnh đạo, triển khai thực hiện các nội dung, nhiệm vụ trọng tâm công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Khối để sớm đưa Nghị quyết Đại hội vào thực tiễn; ngày 06 tháng 7 năm 2011 tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Đảng bộ Khối khóa VII đã thảo luận thông qua 04 đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ VII; tiếp đó ngày 19 tháng 7 năm 2011, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Quyết định số 66-QĐ/ĐUK về triển khai thực hiện 04 Đề án và lựa chọn 4 tổ chức cơ sở đảng làm điểm đó là: Đề án số 01 về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên giai đoạn 2011 - 2015”, do Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước tỉnh làm điểm; Đề án số 02 về “Nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp giai đoạn 2011 - 2015” do Đảng bộ Sở Tài nguyên và Môi trường làm điểm; Đề án số 03 về “Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị giai đoạn 2011 - 2015” do Đảng bộ Cục Thuế tỉnh làm điểm và Đề án số 04 về “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Khối các cơ quan tỉnh giai đoạn 2011 - 2015” do Đảng bộ Sở Y tế làm điểm; ban hành Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK, ngày 10/01/2014 của Đảng ủy Khối khóa VII về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ”. Hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa 4 đề án, 2 nghị quyết của Đảng ủy Khối thành chương trình hành động, kế hoạch thực hiện của đơn vị mình nhằm đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống.
Bám sát sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Nghị quyết Đại hội đề ra; phát huy lợi thế, khắc phục khó khăn, trong nhiệm kỳ Đảng ủy Khối và các cấp ủy, chi bộ cơ sở đã tập trung lãnh đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng luôn được Đảng ủy Khối và các cấp ủy, chi bộ cơ sở quan tâm, coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo học tập, quán triệt và triển khai tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đầy đủ, kịp thời, đảm bảo nội dung, chất lượng; đặc biệt là các hội nghị học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ VII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Quy định số 101- QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu…Các hội nghị được tổ chức nghiêm túc, số lượng đảng viên, công chức, viên chức và người lao động tham gia học tập đạt trên 96%. Căn cứ Kế hoạch số 35-KH/TU, ngày 29/02/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức các hội nghị, cuộc họp của cơ quan Đảng, Nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội” và “Nâng cao ý thức trách nhiệm, kỷ cương, hiệu quả công tác của người đứng đầu, cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan nhà nước”, Đảng ủy Khối đã chỉ đạo 04 đơn vị làm điểm để đánh giá, rút kinh nghiệm và triển khai trong toàn Đảng bộ: Chi bộ cơ quan Đảng ủy Khối và Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy làm điểm nội dung “Nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức hội nghị, cuộc họp ở cơ quan đảng, nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Đảng bộ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh làm điểm nội dung “Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện quyền công tố và kiểm sát của các hoạt động tư pháp”; Đảng bộ Sở Xây dựng làm điểm nội dung “Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính”. Sau một thời gian thực hiện cho thấy: Việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức các hội nghị, cuộc họp; ý thức trách nhiệm, hiệu quả công tác của người đứng đầu và cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị trong Khối các cơ quan tỉnh có bước chuyển biến tích cực.
Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống, nắm bắt tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên, quần chúng được các cấp ủy, chi bộ và đội ngũ báo cáo viên trong Đảng bộ Khối thực hiện thường xuyên thông qua sinh hoạt đảng, đoàn thể và vào dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, của dân tộc, của tỉnh…với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực; cấp phát Bản tin nội bộ do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phát hành đến 100% chi bộ trong toàn Đảng bộ Khối phục vụ các kỳ sinh hoạt. Năm 2010, Đảng ủy Khối đã tổ chức tọa đàm với chủ đề “Nâng cao chất lượng công tác tổ chức xây dựng Đảng, công tác Văn phòng cấp ủy và công tác Dân vận của Đảng trong thời kỳ mới”; tổ chức gặp mặt đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra qua các thời kỳ nhân kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống Ngành Kiểm tra Đảng (16/10/1948 – 16/10/2013). Đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng đã tích cực tham gia cuộc thi tìm hiểu “80 năm ngày truyền thống Ngành Tổ chức xây dựng Đảng” do Đảng ủy Khối phát động; trong số 756 bài dự thi gửi về Đảng ủy Khối có 10 tập thể, 11 cá nhân được BTV Đảng ủy Khối trao giấy chứng nhận và tiền thưởng; 01 cá nhân và tập thể Ban Tổ chức Đảng ủy Khối được Ban Tổ chức Tỉnh ủy khen thưởng; 01 cá nhân đạt giải 3 cấp tỉnh. Đội ngũ báo cáo viên trong Đảng bộ Khối đã phát huy tốt vai trò trong công tác tuyên truyền miệng, kịp thời phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin tình hình thời sự nổi bật quốc tế, trong nước, trong tỉnh, âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; đặc biệt là sự kiện năm 2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan dầu Hải Dương-981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tới cán bộ, đảng viên, quần chúng; thông qua các hoạt động đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Được sự đồng ý của Thường trực Tỉnh ủy, ngày 15/02/2012 Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh (15/02/1952- 15/02/2012), đây là sự kiện chính trị trọng đại của Đảng ủy Khối, là dịp để cán bộ, đảng viên, quần chúng trong Đảng bộ Khối cùng nhau ôn lại truyền thống vẻ vang, tri ân các thế hệ đi trước đã có những cống hiến, đóng góp quan trọng vào chặng đường lịch sử của Đảng bộ Khối trong 60 năm xây dựng và phát triển.
Trong hai ngày 9-10/3/2015, Đảng ủy Khối lần đầu tiên đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị giao ban Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh, thành phố cụm đồng bằng Bắc Bộ lần thứ hai. Đây là diễn đàn để các đơn vị trong cụm được chia sẻ, trao đổi, học tập kinh nghiệm trong công tác. Thành công của Hội nghị đánh dấu không chỉ về nội dung được chuẩn bị chu đáo, chất lượng mà về hình thức tổ chức, công tác lễ tân, phục vụ,...đã thực sự tạo được ấn tượng tốt đẹp với các đơn vị bạn, qua đó góp phần vào việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh, con người Hải Dương - Xứ Đông giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng, thân thiện, mến khách... đến bạn bè các tỉnh, thành phố.
Nét nổi bật của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong nhiệm kỳ này là việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Quyết định số 84-QĐ/ĐUK, ngày 11/10/2011 thành lập Bộ phận giúp việc và Bộ phận chuyên trách của Bộ phận giúp việc Chỉ thị 03 của Đảng ủy Khối; ban hành 11 văn bản lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ, đảng ủy cơ sở tổ chức việc học tập các chuyên đề tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo từng thời gian. Năm 2013, Đảng ủy Khối mời PGS.TS Phạm Ngọc Anh, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh về nói chuyện chuyên đề với chủ đề: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ” cho 250 cán bộ chủ chốt trong toàn Đảng bộ. Hướng dẫn, đôn đốc các chi bộ, đảng ủy cơ sở đánh giá thực trạng việc xây dựng, thực hiện các chuẩn mực đạo đức, lối sống, tiến hành rà soát bổ sung quy định về chuẩn mực đạo đức, lối sống theo tư tưởng, tấm gương đạo đức phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên và việc đăng ký nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; 100% các đơn vị đã xây dựng, ban hành quy định về chuẩn mực đạo đức và kế hoạch thực hiện chuẩn mực đạo đức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phù hợp với nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, đồng thời cụ thể hóa thành bộ tiêu chí ngắn gọn, dễ nhớ và cho in khổ lớn, đóng khung treo ở các vị trí trang trọng, dễ nhìn tại trụ sở làm việc. Hằng năm tổ chức Hội nghị sơ kết, gặp mặt các gương tập thể, cá nhân tiên tiến, điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ các tổ chức cơ sở đảng và toàn Đảng bộ Khối. Kết quả sau 4 năm (2011 - 2015) triển khai thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, có 69 tập thể, 50 cá nhân được tôn vinh, khen thưởng trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (95 tập thể, cá nhân được Ban Thường vụ Đảng ủy Khối tặng giấy khen, 24 tập thể, cá nhân được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen); qua đó đã tạo được ấn tượng tốt đẹp và sức lan tỏa mạnh mẽ trong mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng ở các cơ quan, đơn vị.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên được các cấp ủy, chi bộ quan tâm thực hiện. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy Khối đã mở 22 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 2.827 quần chúng ưu tú; 10 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 899 đảng viên mới; 05 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng cho hơn 1.085 lượt cấp ủy viên, ủy viên UBKT, báo cáo viên cơ sở. Nhiều cấp ủy, chi bộ cơ sở đã chọn cử cán bộ, đảng viên tham dự các lớp trung, cao cấp lý luận chính trị do Trường Chính trị tỉnh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức.
Tuy nhiên, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu; việc tổ chức quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng có nơi còn chưa sâu kỹ, chưa khắc phục tình trạng ngại, lười nghiên cứu, học tập nghị quyết của một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống về nội dụng, hình thức còn đơn điệu; việc thực hiện Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị ở một số chi bộ còn hình thức.
Công tác tổ chức xây dựng đảng, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị được Đảng ủy Khối và các cấp ủy, chi bộ chú trọng, trên cơ sở Quy định số 293-QĐ/TW, ngày 23/3/2010 của Ban Bí thư về “Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh, thành phố", Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy xây dựng, trình và được Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quyết định số 211-QĐ/TU, ngày 26/5/2011 Quy định “Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh”; ban hành Quy chế số 03-QC/TU, ngày 27/8/2012 Quy chế phối hợp giữa Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh với các Ban xây dựng Đảng Tỉnh ủy, với ban cán sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo các cơ quan đơn vị thuộc Khối. Đây là một trong những dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của Đảng bộ Khối; qua một thời gian triển khai thực hiện trong Đảng bộ Khối, bước đầu đạt kết quả thiết thực; vị trí, vai trò, chất lượng, hiệu quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Khối được nâng cao.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Đảng ủy Khối đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ cơ sở tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết, tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc với quyết tâm chính trị cao, xác định rõ lộ trình thực hiện; gợi ý nội dung kiểm điểm đối với 10 cấp ủy, chi bộ cơ sở gồm: Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Tài chính; Sở Tài nguyên và Môi trường; Thanh tra tỉnh; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Ban Dân vận Tỉnh ủy; Văn phòng Tỉnh ủy; Trường Chính trị tỉnh; Hội Nông dân và Chi bộ Hội VHNT tỉnh; việc tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể cấp ủy, cá nhân cấp ủy viên các cấp và cá nhân đảng viên được thực hiện nghiêm túc với 165 tập thể cấp ủy các cấp, 838 lượt cá nhân cấp ủy viên và 3.075 cá nhân đảng viên được kiểm điểm. Qua kiểm điểm nhiều cấp ủy, chi bộ, cá nhân đảng viên đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc và coi trọng hơn công tác xây dựng Đảng; kịp thời rút kinh nghiệm việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chỉ ra được những hạn chế, khuyết điểm, những việc cần làm ngay và xây dựng kế hoạch khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị; Quy định số 47-QĐ/TW của BCH Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng thời tạo sự chuyển biến tích cực trong việc phát hiện và ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, giữ nghiêm kỷ luật Đảng.
Việc kiện toàn, củng cố các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc được Đảng ủy Khối lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành bàn giao 9 chi bộ trực thuộc với 136 đảng viên về Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh theo Quyết định số 245-QĐ/TU, ngày 17/6/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; năm 2010 nâng cấp 03 chi bộ cơ sở thành đảng bộ cơ sở (Đảng bộ Sở Thông tin và Truyền thông, Đảng bộ Trung tâm Khí tượng thủy văn tỉnh, Đảng bộ Cục Thi hành án dân sự tỉnh); thành lập 2 chi bộ cơ sở mới (Chi bộ Trường Đại học Thành Đông năm 2011, Chi bộ Quỹ đầu tư phát triển Hải Dương năm 2013); năm 2013 thành lập Chi bộ Ban Nội chính Tỉnh ủy trên cơ sở sáp nhập Chi bộ Văn phòng Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh và Chi bộ Phòng Nội chính tiếp dân thuộc Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy; năm 2014 tiếp nhận Chi bộ Chi cục Kiểm lâm tỉnh từ Thị ủy Chí Linh về trực thuộc Đảng ủy Khối; chỉ đạo Đảng ủy Văn phòng Tỉnh ủy giải thể Chi bộ Nhà khách Hồ Côn Sơn và chuyển sinh hoạt đảng cho đảng viên về Thị ủy Chí Linh; ra quyết định đổi tên Đảng bộ Trung tâm Khí tượng Thủy văn tỉnh thành Đảng bộ Đài Khí tượng Thủy văn tỉnh, nâng cấp chi bộ Bệnh viện Điều dưỡng - Phục hồi chức năng tỉnh thành Đảng bộ Bệnh viên Phục hồi chức năng tỉnh; năm 2015 quyết định giải thể chi bộ Ngân hàng phát triển tỉnh không còn phù hợp về mặt tổ chức. Mặc dù có sự biến động về tổ chức nhưng tổng số tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Khối trong nhiệm kỳ này được duy trì khá ổn định với 58 đơn vị (39 đảng bộ và 19 chi bộ cơ sở).
Trên cơ sở Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK, ngày 10/01/2014 của Đảng ủy Khối về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ”, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã lựa chọn, chỉ đạo làm điểm việc tổ chức sinh hoạt chuyên đề ở 01 chi bộ cơ sở và 05 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở theo 06 Khối thi đua gồm: Chi bộ Cơ quan UBMT Tổ quốc tỉnh; 01 chi bộ thuộc Đảng ủy UBKT Tỉnh ủy; 01 chi bộ thuộc Đảng ủy Sở Thông tin và Truyền thông; 01 chi bộ thuộc Đảng ủy Ngân hàng Nhà nước tỉnh; 01 chi bộ thuộc Đảng ủy Tòa án nhân dân tỉnh. Việc tổ chức sinh hoạt điểm ở 06 chi bộ đã thực sự trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, là dịp để các cấp ủy, tổ chức đảng, cá nhân đồng chí bí thư cấp ủy, chi bộ trong toàn Đảng bộ Khối có cơ hội trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác Đảng nói chung, sinh hoạt cấp ủy, chi bộ nói riêng. Ngày 28 tháng 4 năm 2014, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã tổ chức Hội nghị tọa đàm “Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ” để rút kinh nghiệm việc tổ chức sinh hoạt chi bộ cho lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng, nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết trong Đảng bộ; đồng thời phân công các đồng chí cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách trực tiếp tham dự các kỳ sinh hoạt hằng tháng với 183 lượt cấp ủy, chi bộ để nắm tình hình, hướng dẫn về nội dung, phương pháp tiến hành sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Đa số cấp ủy, chi bộ đã thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt Đảng, nội dung sinh hoạt đã bao quát toàn bộ các lĩnh vực, phát huy được trí tuệ của từng cấp ủy viên, đảng viên trong việc tham gia xây dựng Nghị quyết; nguyên tắc tập trung dân chủ được chấp hành khá tốt, chế độ tự phê bình và phê bình được tiến hành thường xuyên; chất lượng sinh hoạt từng bước được nâng lên; số lượng đảng viên tham dự sinh hoạt đạt trên 95%.
Thực hiện quy định của Điều lệ Đảng và Công văn số 5766-CV/VPTW, ngày 17/6/2013 của Văn phòng Trung ương Đảng về việc kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã lựa chọn nội dung, chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở tiến hành sơ kết giữa nhiệm kỳ triển khai thực hiện 4 đề án trong chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh khóa VII; tổ chức hội nghị sơ kết giữa nhiệm kỳ trong toàn Đảng bộ gắn với Lễ đón nhận Huân chương lao động hạng Ba; đồng thời khen thưởng 11 tổ chức cơ sở đảng có thành tích tiêu biểu trong triển khai thực hiện các đề án gồm: Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước tỉnh, Đảng bộ Sở Giao thông vận tải, Đảng bộ Sở Khoa học công nghệ, Đảng bộ Tòa án Nhân dân tỉnh, Đảng bộ Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh, Đảng bộ Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Hải Hưng, Đảng bộ Kho Bạc Nhà nước, Đảng bộ Cục Thuế tỉnh, Đảng bộ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Đảng bộ Sở Y tế và Đảng bộ Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch; chỉ đạo 334 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở tổ chức thành công đại hội nhiệm kỳ 2013 - 2015 và bầu được 595 cấp ủy viên tham gia cấp ủy tại các chi bộ. Nhìn chung đội ngũ cấp uỷ viên đảm bảo tiêu chuẩn, có số lượng và cơ cấu hợp lý, trong đó hầu hết đồng chí bí thư chi bộ đều được cơ cấu là cán bộ cấp trưởng cấp phòng và tương đương, qua đó tạo được sự thống nhất trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng ở các cơ quan, đơn vị.
Phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh được duy trì thành nền nếp và có chất lượng. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh bình quân hàng năm là 96,44% (tăng 3,07% so với nhiệm kỳ Đại hội VI và cao hơn 1,44% so với chỉ tiêu đặt ra từ đầu nhiệm kỳ là 95%), không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Trong nhiệm kỳ có 06 đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt trong sạch vững mạnh có thành tích tiêu biểu được Tỉnh ủy tặng Cờ thi đua (gồm ĐB Kho bạc Nhà nước tỉnh; Chi bộ Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh; ĐB Cục Thuế tỉnh; ĐB Ngân hàng nhà nước; ĐB Tỉnh Đoàn; ĐB Sở Xây dựng). Công tác phát triển đảng viên mới được các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Khối thực hiện tốt theo tinh thần Chỉ thị số 13- CT/TU, ngày 05/12/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh công tác kết nạp đảng viên trong giai đoạn mới; Quy định số 173-QĐ/TW, ngày 11/3/2013 của Ban Bí thư về kết nạp lại đối với đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng, kết nạp quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình vào Đảng. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp 1.089 đảng viên mới (vượt so với chỉ tiêu Đại hội VII đề ra là 598 đảng viên, tăng 312 đảng viên so với nhiệm kỳ VI). Công tác quản lý đảng viên được duy trì nền nếp, đảm bảo quy định: Chuyển đảng chính thức cho 826 đảng viên; phát thẻ đảng cho 1.076 đảng viên; tiến hành kiểm tra đóng dấu kỹ thuật thẻ đảng viên lần thứ 2 cho 2.677 đảng viên; 297 đảng viên được nhận Huy hiệu 30, 40, 50 năm tuổi Đảng. Hằng năm, số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên bình quân đạt 97,7% (thấp hơn so với chỉ tiêu Đại hội đặt ra là 98%). Quy định 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị được các cấp ủy, chi bộ, đảng viên thực hiện nghiêm túc; nhiều cấp ủy, chi bộ đã lập được sổ theo dõi, thường xuyên rà soát, cập nhật nơi cư trú của đảng viên, nhất là những đảng viên mới kết nạp, đảng viên chuyển công tác, thay đổi nơi cư trú, kịp thời giới thiệu đảng viên với chi ủy nơi cư trú để theo dõi, đánh giá, giúp đỡ. Về cơ bản, đảng viên trong Đảng bộ Khối đều có ý thức và thực hiện tốt việc giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
Đảng ủy Khối đã chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ cơ sở tham gia với Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và lao động trong các sở, ban, ngành, các đơn vị sự nghiệp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh đã chủ động làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với cơ quan, đơn vị tham mưu cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo, điều hành và đề xuất ban hành các chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, góp phần đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Về cơ bản đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối luôn có ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, đổi mới tác phong, lề lối làm việc, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính trong thực thi công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Công tác tổ chức, cán bộ của Đảng ủy Khối trong nhiệm kỳ tiếp tục được quán triệt và thực hiện đúng theo quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc của Đảng. Tháng 3/2011, đồng chí Trần Minh Đức, Phó trưởng Ban Tuyên giáo được bổ nhiệm giữ chức Chánh Văn phòng; tháng 3/2011, đồng chí Nguyễn Xuân Hưởng, Phó Chánh Văn phòng được bổ nhiệm giữ chức Phó trưởng Ban Tuyên giáo; tháng 3/2011 đồng chí Nguyễn Thị Khuyên, phụ trách kế toán được bổ nhiệm giữ chức Phó Chánh Văn phòng. Đến tháng 8/2014, 04 đồng chí chuyên viên các Ban, Văn phòng Đảng ủy Khối được bổ nhiệm, chuẩn y giữ các chức danh phó trưởng ban và tương đương gồm (Đồng chí Nguyễn Hữu Quang được bổ nhiệm giữ chức Phó trưởng Ban Tổ chức; đồng chí Nguyễn Hồng Quân được bổ nhiệm giữ chức Phó trưởng Ban Tuyên giáo; đồng chí Nguyễn Thị Hương được bổ nhiệm giữ chức Phó Chánh Văn phòng; đồng chí Nguyễn Thị Tuyết được chuẩn y giữ chức Phó Chủ nhiệm UBKT). Tháng 9/2014, đồng chí Nguyễn Thị Thu Huyền, UVBCH, Phó trưởng Ban Tuyên giáo được bổ nhiệm giữ chức Trưởng Ban Tuyên giáo. Công tác rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ giai đoạn 2010 - 2015; xây dựng quy hoạch cán bộ giai đoạn 2015 – 2020 được Đảng ủy Khối thực hiện và chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ cơ sở phối hợp với thủ trưởng cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm túc, bài bản, đúng quy định, qua đó góp phần thực hiện đồng bộ các khâu của công tác cán bộ. Trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã tham gia nhận xét, đánh giá 73 cán bộ thuộc diện Tỉnh ủy quản lý là đảng viên sinh hoạt tại Đảng bộ trước khi bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử; ra quyết định chỉ định, chuẩn y bổ sung là 33 ủy viên ban chấp hành, 09 ủy viên ban thường vụ, 13 bí thư, 12 phó bí thư ở các chi, đảng bộ cơ sở khi có sự biến động. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được Đảng ủy Khối triển khai thực hiện nghiêm theo Quy định số 57-QĐ/TW, ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ”; phân công cán bộ trực tiếp tham mưu giúp cấp ủy làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ; thực hiện tốt việc nắm và quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên; thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị phục vụ cho phát triển đảng viên, công tác cán bộ.
Công tác củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên tuy đã được tăng cường, song chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đề ra; một số cấp ủy chưa coi trọng đúng mức công tác đảng ở cơ sở; một số cấp ủy, chi bộ chưa bắt nhịp được theo sự chỉ đạo, yêu cầu của Đảng ủy Khối trong việc thực hiện Đề án số 01-ĐA/ĐUK và Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK; việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI có nơi chưa sâu sắc, còn tình trạng nể nang, “dĩ hòa vi quý”; việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp chưa rõ nét.
Công tác kiểm tra, giám sát được Đảng ủy Khối xác định là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu, có vai trò rất quan trọng trong công tác xây dựng đảng của Đảng bộ Khối và các tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng ủy Khối đã kịp thời ban hành Quy chế làm việc của Ủy ban kiểm tra (UBKT) Đảng ủy Khối khóa VII; chỉ đạo cấp uỷ cơ sở xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của UBKT đảng uỷ cơ sở theo Điều lệ Đảng khóa XI; quán triệt, triển khai thực hiện các quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh uỷ về công tác kiểm tra, giám sát và Đề án số 02-ĐA/ĐUK, ngày 19/7/2011 của Đảng ủy Khối khóa VII về “Nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp giai đoạn 2011 - 2015”; chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng xây dựng và thực hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa và hằng năm.
Trong nhiệm kỳ Đảng ủy Khối đã thực hiện 06 cuộc kiểm tra đối với 34 tổ chức đảng; giám sát chuyên đề 05 cuộc đối với 14 tổ chức đảng và 06 đảng viên diện Đảng uỷ Khối quản lý. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc: Xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ VII, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng cấp cơ sở nhiệm kỳ 2010-2015; xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) gắn với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; thực hiện 4 Đề án của Đảng uỷ Khối, Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK của Đảng uỷ Khối về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ”; giải quyết 01 đơn khiếu nại kỷ luật đảng theo quy định (giải quyết khiếu nại kỷ luật của đồng chí Nguyễn Văn Bình, đảng viên Chi bộ Ban Dân dận Tỉnh ủy); tổ chức thực hiện 11 cuộc kiểm tra theo kế hoạch của Tỉnh ủy.
Uỷ ban Kiểm tra Đảng uỷ Khối và các ban, văn phòng Đảng ủy Khối đã thực hiện tốt việc tham mưu cho Đảng uỷ Khối lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng và nhiệm vụ Đảng uỷ Khối giao; thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo điều 30 Điều lệ Đảng; tiến hành kiểm tra thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát 70 tổ chức đảng; kiểm tra việc thu nộp và sử dụng đảng phí 26 cấp uỷ; kiểm tra việc thi hành kỷ luật đảng viên 09 tổ chức đảng; giám sát chuyên đề đối với 13 cấp ủy và 08 đồng chí bí thư, chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở; thực hiện tốt việc giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại; kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với 01 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở (Chi bộ Kinh tế ngành thuộc Đảng bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư). Các ban và Văn phòng Đảng ủy Khối thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát thường xuyên và đã xây dựng chương trình, tổ chức thực hiện 08 cuộc kiểm tra đối với 17 đảng uỷ, chi bộ cơ sở.
Các đảng uỷ, chi bộ và uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở đã tiến hành kiểm tra 428 chi bộ, giám sát chuyên đề 124 chi bộ. Các đảng uỷ, chi bộ đã thực hiện kiểm tra 1.052 đảng viên, giám sát 502 đảng viên. Các cuộc kiểm tra, giám sát đối với chi bộ và đảng viên được thực hiện cơ bản đúng quy trình, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với 270 chi bộ; kiểm tra việc thu nộp và sử dụng đảng phí đối với 284 chi bộ; kiểm tra 05 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giám sát 71 chi bộ và 125 đảng viên.
Trong nhiệm kỳ, các cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền trong Đảng bộ đã thi hành kỷ luật 33 đảng viên. Hình thức kỷ luật: Khai trừ 02; cảnh cáo 08; khiển trách 23 (trong đó vi phạm đạo đức, lối sống 02; chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình 24; các vi phạm khác 07).
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, tổ chức đảng còn chưa đảm bảo chất lượng, hiệu quả; nhiều chi bộ chưa thực hiện kiểm tra, giám sát đảng viên theo quy định của Điều lệ; ủy ban kiểm tra hai cấp chưa phát hiện và kiểm tra được tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
Hoạt động của các tổ chức đoàn thể được các cấp ủy, chi bộ trong Đảng bộ Khối quan tâm lãnh đạo thông qua việc chỉ đạo, triển khai thực hiện Đề án số 03-ĐA/ĐUK về “Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị giai đoạn 2011 - 2015” và Đề án số 04-ĐA/ĐUK về “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Khối các cơ quan tỉnh giai đoạn 2011 - 2015”.
Là cơ quan thường trực Đề án số 04, Đoàn thanh niên Khối các cơ quan tỉnh đã ban hành Hướng dẫn số 08-HD/ĐKCCQ, ngày 29/9/2011 để chỉ đạo các tổ chức cơ sở đoàn trực thuộc triển khai thực hiện; tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho đoàn viên, thanh niên; phối hợp với các đoàn thể trong Khối tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao; triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị gắn với cuộc vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam trong thời kỳ mới” và các phong trào hành động cách mạng của đoàn: “Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “Bốn đồng hành cùng thanh niên lập thân, lập nghiệp”, phong trào “Thanh niên xung kích đi đầu trong cải cách hành chính, xây dựng công sở văn minh, xanh, sạch, đẹp”; hằng năm tổ chức các hoạt động cao điểm vào dịp “Tháng thanh niên”; chú trọng công tác xây dựng đoàn và Đoàn tham gia xây dựng Đảng; tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Đoàn thanh niên Khối các cơ quan tỉnh và liên hoan thanh niên tiên tiến khu vực phía Bắc lần thứ IX; quan tâm bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho 925 cán bộ đoàn; lựa chọn, giới thiệu 1.123 đoàn viên ưu tú cho Đảng, trong đó có 901 đoàn viên được kết nạp vào Đảng, góp phần bổ sung lực lượng kế cận quan trọng đối với các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Khối. Kết quả xếp loại hằng năm có trên 96% tổ chức cơ sở đoàn xếp loại vững mạnh. Trong 02 ngày 18-19/7/2012, Đoàn Thanh niên Khối các cơ quan tỉnh tổ chức thành công Đại hội lần thứ V, nhiệm kỳ 2012 - 2017. Ban Chấp hành Đoàn thanh niên Khối các cơ quan tỉnh khóa V gồm 24 đồng chí; đồng chí Phùng Thị Phin được bầu làm Bí thư. Tổng số tổ chức cơ sở đoàn là 46 với 6.355 đoàn viên (có 770 đoàn viên là đảng viên).
Là cơ quan thường trực Đề án số 03-ĐA/ĐUK, Công đoàn Viên chức tỉnh đã ban hành Hướng dẫn số 21- HD/CĐVC chỉ đạo công đoàn cơ sở triển khai thực hiện Đề án số 03 về “Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị giai đoạn 2011 - 2015”; 100% các cơ quan, đơn vị đã xây dựng được Quy chế dân chủ; 100% ban chấp hành công đoàn cơ sở xây dựng được quy chế phối hợp với thủ trưởng cơ quan, đơn vị; nhiều ban thanh tra nhân dân ở các cơ quan đã thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi giám sát của mình theo quy định. Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chính sách mới liên quan trực tiếp đến công chức, viên chức, người lao động thường xuyên được quan tâm; cuộc vận động xây dựng người cán bộ công chức, viên chức “Trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu”, phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, nữ công chức, viên chức “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”...được duy trì nền nếp và thu được kết quả tích cực. Hằng năm, các công đoàn cơ sở đã phối hợp với thủ trưởng cơ quan, đơn vị phát động các phong trào thi đua yêu nước; tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đảm bảo thời gian, nội dung, chất lượng; phối hợp với các đoàn thể trong Khối tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, thể thao, tham gia hiến máu nhân đạo, đóng góp ủng hộ các quỹ do Trung ương và tỉnh phát động. Kết quả xếp loại hằng năm: 100% công đoàn cơ sở đạt vững mạnh, trong đó có 90% trở lên đạt vững mạnh xuất sắc; Công đoàn Viên chức tỉnh được Công đoàn Viên chức Việt Nam tặng Cờ thi đua. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy công đoàn các cấp được quan tâm kịp thời. Thực hiện Điều lệ Công đoàn và sự chỉ đạo của công đoàn cấp trên, từ ngày 22-23/11/2012 Công đoàn Viên chức tỉnh tổ chức thành công Đại hội lần thứ III, nhiệm kỳ 2013 - 2018. Ban Chấp hành Công đoàn Viên chức tỉnh khóa III gồm 15 ủy viên; đồng chí Nguyễn Mạnh Tưởng được bầu làm Chủ tịch. Tổng số công đoàn cơ sở là 48 với 4.452 đoàn viên.
Hoạt động của Hội Cựu chiến binh Khối các cơ quan tỉnh trong nhiệm kỳ tiếp tục tập trung vào việc chỉ đạo các tổ chức Hội cơ sở bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị tổ chức các hoạt động theo Điều lệ và Pháp lệnh Cựu chiến binh Việt Nam; tuyên truyền, vận động, tập hợp cán bộ, hội viên phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan, đơn vị trong sạch vững mạnh; thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh các hoạt động giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống cách mạng của Đảng, dân tộc và hướng về biển đảo Tổ quốc; phối hợp tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, thể thao...; tích cực tham gia phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, thăm hỏi tặng quà các đối tượng chính sách, phụng dưỡng “Mẹ Việt Nam anh hùng”; ủng hộ các quỹ nhân đạo, từ thiện do cấp trên phát động, tặng 897 suất quà trị giá 421 triệu đồng. Kết quả xếp loại thi đua hằng năm, 100% tổ chức Hội đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, trong đó có trên 55% tổ chức hội đạt xuất sắc; năm 2011 Hội CCB Khối được Trung ương Hội tặng Cờ thi đua xuất sắc. Thực hiện Điều lệ Hội, ngày 26/7/2012 Hội Cựu chiến binh Khối các cơ quan tỉnh đã tổ chức thành công Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2012 - 2017 và Đại hội thi đua yêu nước “Cựu chiến binh gương mẫu” lần thứ nhất. Ban Chấp hành Hội CCB Khối khóa II gồm 15 ủy viên; đồng chí Đào Thanh Tân, Phó Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được bầu làm Chủ tịch. Tổng số Hội CCB cơ sở là 34 với 582 hội viên.
Mặc dù hoạt động của các đoàn thể trong Khối đã có nhiều khởi sắc song chưa thường xuyên và còn mang tính phong trào, chậm đổi mới về nội dung, hình thức,...
Từ những kết quả và hạn chế trong nhiệm kỳ Đại hội VII đặt ra cho Đảng ủy Khối cần tiếp tục có những giải pháp nhằm phát huy kết quả đạt được, ưu điểm, từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong thời gian tiếp theo, xây dựng Đảng bộ Khối trong sạch, vững mạnh, góp phần quan trọng vào việc xây dựng Hải Dương sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đất nước bước vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020 trong bối cảnh khu vực và thế giới có những yếu tố thuận lợi, khó khăn đan xen, diễn biến phức tạp hơn so với dự báo, tác động đến phát triển kinh tế trong nước; đặc biệt, vào năm cuối của nhiệm kỳ, đại dịch Covid-19 chưa từng có trong nhiều thập kỷ xảy ra trên phạm vi toàn cầu đã làm ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống xã hội. Kinh nghiệm tổng kết được sau 30 năm đổi mới cùng với những chủ trương, quyết sách của Đảng đã tạo ra động lực mới, mạnh mẽ hơn trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tình hình chính trị, xã hội của tỉnh tiếp tục ổn định mặc dù cũng còn nhiều khó khăn, thách thức phải giải quyết do áp lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế về tái cơ cấu kinh tế, chất lượng và sức cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao; khả năng cân đối ngân sách, nhất là bố trí vốn cho đầu tư phát triển còn nhiều khó khăn; với vị trí quan trọng trong không gian phát triển Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng và vùng Thủ đô, cùng với tuyến đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng được đưa vào sử dụng, tỉnh Hải Dương ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong mở rộng giao lưu hợp tác thương mại và đầu tư với các tỉnh trong vùng và khu vực. Trong bối cảnh chung đó, các cấp ủy, chi bộ và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh đã cố gắng vượt bậc để khắc phục khó khăn, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, chọn khâu đột phá, triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 113-KH/TU, ngày 16/10/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Kế hoạch số 65-KH/ĐUK, ngày 11/11/2015 để chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ cơ sở tiến hành Đại hội Đảng cấp cơ sở nhiệm kỳ 2015 - 2020, lựa chọn hai đơn vị: Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước tỉnh và Đảng bộ Sở Xây dựng tổ chức Đại hội điểm, rút kinh nghiệm triển khai trong toàn Đảng bộ Khối.
Trong 02 ngày 25-26/8/2015, Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh long trọng tổ chức Đại hội lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 với chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy sức mạnh đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, trí tuệ và đổi mới, xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh trong sạch vững mạnh”. Có 195 đại biểu đại diện cho 3.534 đảng viên của 57 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ Khối về dự Đại hội.
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong nhiệm kỳ 2010-2015, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo thực hiện trong giai đoạn tiếp theo; đề ra phương hướng, mục tiêu chung: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát huy sức mạnh đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, trí tuệ và đổi mới, xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh trong sạch vững mạnh. Tập trung lãnh đạo thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tăng cường thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng gắn với học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; thực hiện tốt công tác quản lý cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, chi bộ; nêu cao vai trò trách nhiệm của cấp ủy, nhất là người đứng đầu trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng đảng bộ, chi bộ, cơ quan, đơn vị và các đoàn thể trong sạch vững mạnh, góp phần xây dựng Hải Dương sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại” và một số chỉ tiêu cụ thể hằng năm là: 100% chi, đảng bộ cơ sở tổ chức học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đảm bảo thời gian, nội dung, chất lượng; 50% trở lên tổ chức cơ sở đảng xây dựng tập thể, cá nhân tiên tiến điển hình trong ‘‘Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’’; 100% cấp ủy, chi bộ lãnh đạo cán bộ, đảng viên tham mưu tổ chức thực hiện, hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, trong đó có 80% trở lên cơ quan, đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 80% trở lên số chi, đảng bộ cơ sở đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém; 95% trở lên đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ; kết nạp từ 150 đảng viên trở lên; 100% các cấp ủy, tổ chức đảng xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát; UBKT thực hiện toàn diện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, tập trung thực hiện kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; 90% trở lên tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh cơ sở đạt vững mạnh. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng bằng khen.
Một số nhiệm vụ trọng tâm Đại hội xác định tiếp tục thực hiện trong nhiệm kỳ VIII là: Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị (khóa XI) gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh; xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng; quan tâm lãnh đạo, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đoàn thể; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, chi bộ; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của các cơ quan tham mưu, giúp việc Đảng ủy Khối.
Đại hội bầu 24 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Khối khóa VIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối đã bầu 07 đồng chí tham gia Ban Thường vụ Đảng ủy Khối khóa VIII gồm: Đ/c Đặng Thị Kim Thanh, Nguyễn Thúy Hà, Nguyễn Thị Thu Huyền, Trần Minh Đức, Nguyễn Hữu Quang, Nguyễn Hồng Quân, Phan Trọng Khánh. Đồng chí Đặng Thị Kim Thanh được bầu làm Bí thư; 02 đồng chí là Nguyễn Thúy Hà, Nguyễn Thị Thu Huyền được bầu làm Phó Bí thư (đồng chí Nguyễn Thúy Hà được Đảng ủy Khối phân công làm Phó Bí thư Thường trực). Ban Chấp hành đã bầu UBKT Đảng ủy Khối khóa VIII gồm 06 đồng chí; đồng chí Nguyễn Thúy Hà được bầu làm Chủ nhiệm; đồng chí Nguyễn Thị Tuyết, Đảng ủy viên được UBKT bầu làm Phó Chủ nhiệm. Cũng trong thời gian này, đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Bích được Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều động sang Hội đồng Nhân dân tỉnh. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy Khối đã kiện toàn, bổ sung 03 ủy viên Ban Chấp hành (Đồng chí Vũ Nguyên Đăng, Bí thư Đoàn thanh niên Khối; đồng chí Nguyễn Thế Nhất, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy và đồng chí Vũ Mạnh Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần kinh doanh nước sạch Hải Dương); tiếp nhận đồng chí Vũ Văn Thiết, UVBTV, Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh về công tác và tham gia Ban Thường vụ Đảng ủy Khối theo quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Tháng 4/2020, đồng chí Đặng Thị Kim Thanh, Bí thư Đảng ủy Khối nghỉ hưu, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã điều động đồng chí Vũ Tiến Phụng, Tỉnh ủy viên, Chủ tịch UBND thành phố Hải Dương về công tác tại Đảng ủy Khối và chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, giữ chức Bí thư Đảng ủy Khối nhiệm kỳ 2015 - 2020. Đến tháng 8/2020 toàn Đảng bộ có 68 tổ chức cơ sở đảng (gồm 47 đảng bộ, 21 chi bộ cơ sở) với 393 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở và 4.925 đảng viên.
Trên cơ sở tổng kết các đề án, nghị quyết chuyên đề của nhiệm kỳ 2010-2015, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối khóa VIII đã ban hành 4 kết luận về tiếp tục thực hiện 4 đề án và Nghị quyết số 02 của Ban Chấp hành Đảng bộ Khối khóa VII; đồng thời ban hành 2 nghị quyết mới: Nghị quyết số 01-NQ/ĐUK, ngày 13/5/2016 về “Đổi mới, nâng cao chất lượng việc tổ chức hội nghị quán triệt, triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng” và Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK, ngày 13/5/2016 về “Đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung các báo cáo, chế độ thông tin báo cáo trong Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh” nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng và các hoạt động của các đoàn thể trong Đảng bộ Khối đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ngay sau Đại hội, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy tham mưu, trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quy chế số 03-QC/TU, ngày 29/7/2016 “Quy chế phối hợp công tác giữa Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh với các cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh ủy; các đảng đoàn, ban cán sự đảng và lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Khối” (sửa đổi, bổ sung); một số cơ quan, đơn vị đã thường xuyên thông tin, trao đổi với Ban Thường vụ Đảng ủy Khối những vấn đề có liên quan đến công tác cán bộ, việc kiện toàn tổ chức bộ máy, thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng để thống nhất lãnh đạo. Qua 5 năm thực hiện Quy chế số 03 cho thấy đã có bước phát triển cả về nội dung, trách nhiệm và có sự ràng buộc cao hơn trong công tác phối hợp giữa Đảng ủy Khối với các cơ quan liên quan, từ đó vị thế, vai trò của Đảng ủy Khối có hiệu lực, hiệu quả hơn trong hoạt động và việc tham mưu thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của Tỉnh ủy.
Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội đề ra là rất lớn; phát huy lợi thế, khắc phục khó khăn, với tinh thần đoàn kết, thống nhất cao, Đảng ủy Khối và các cấp ủy, chi bộ cơ sở đã tập trung lãnh đạo, động viên đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động tích cực tham mưu, triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng đảng, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ VIII.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tiếp tục được Đảng ủy Khối và các cấp ủy, chi bộ cơ sở coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ theo đúng định hướng của Đảng; kịp thời tổ chức các hội nghị học tập, quán triệt, xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương, của Tỉnh ủy; 04 kết luận, 02 nghị quyết của Đảng ủy Khối; đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết TW6, TW7, TW8 khóa XII, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo thành các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ Khối. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy Khối đã triệu tập 8 hội nghị học tập, quán triệt tập trung cho hơn 1.000 lượt cán bộ chủ chốt, báo cáo viên trong Đảng bộ; sau học tập, 100% cán bộ, đảng viên viết bài thu hoạch theo quy định, tỷ lệ cán bộ, đảng viên, quần chúng tham gia học tập đạt trên 95%; phát động phong trào thi đua “Cán bộ, đảng viên Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hải Dương đoàn kết, sáng tạo, ra sức thi đua lập nhiều thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của Đảng, của dân tộc”; tổ chức Hội nghị gặp mặt, tọa đàm “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, UBKT và các chi bộ” kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Ngành Kiểm tra Đảng (16/10/1948-16/10/2018).
Điểm nổi bật trong công tác chính trị, tư tưởng giai đoạn này là Đảng ủy Khối đã thành lập Ban chỉ đạo đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa (Ban Chỉ đạo 94); Ban Chỉ đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới (Ban Chỉ đạo 35); Tổ cộng tác viên dư luận xã hội của Đảng ủy Khối phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các nhiệm vụ trên lĩnh vực tư tưởng của Đảng ủy Khối. Công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, nắm bắt tình hình tư tưởng và định hướng dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên, quần chúng được các cấp ủy, chi bộ, đội ngũ báo cáo viên, cộng tác viên dư luận xã hội, cộng tác viên Ban Chỉ đạo 35 của Đảng ủy Khối duy trì thường xuyên; hoạt động đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái, âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng được tăng cường, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phục vụ tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng. 100% chi bộ đều được cấp Bản tin nội bộ do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phát hành làm tài liệu sinh hoạt hằng tháng; đội ngũ Báo cáo viên các cấp trong Đảng bộ Khối hàng tháng đều được tham dự Hội nghị báo cáo viên do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức để nắm bắt thông tin, chính sách phục vụ công tác tuyên truyền tại cơ sở. Công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng được Ban Thường vụ Đảng ủy Khối quan tâm chỉ đạo thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị được các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Khối coi trọng; Đảng ủy Khối đã tổ chức Hội nghị phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị cho trên 1000 lượt cán bộ lãnh đạo chủ chốt, báo cáo viên của các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, số còn lại được học tập, nghiên cứu Chỉ thị thông qua các kỳ sinh hoạt chi bộ; đăng ký 11 nội dung công việc đột phá với Ban Thường vụ Tỉnh ủy; các cấp ủy, chi bộ cơ sở đã duy trì học tập chuyên đề trong sinh hoạt chi bộ hàng tháng, quý, trong đó chú trọng xây dựng phong cách làm việc khoa học, cụ thể, sâu sát cơ sở, đề cao vai trò nêu gương, nói đi đôi với làm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, lãnh đạo chủ chốt trong toàn Đảng bộ theo Quy định 101-QĐ/TW của Ban Bí thư; lựa chọn, đăng ký 326 công việc đột phá với Đảng ủy Khối để tập trung thực hiện; tiến hành rà soát bổ sung quy định về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, đơn vị. Hầu hết đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối đã xây dựng và thực hiện tốt các nội dung đăng ký nêu gương, cam kết tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu cá nhân hằng năm. Qua 04 năm (2016 - 2020) triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, kết quả bước đầu đã có tác dụng thiết thực, thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng, khắc phục những khuyết điểm trong việc quản lý, đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên và việc tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo chuẩn mực đã đề ra. Các cấp ủy, chi bộ đã quan tâm xây dựng các điển hình tiên tiến, ghi sổ “Gương người tốt, việc tốt” được 403 lượt tập thể và 2.790 cá nhân; có 67 tập thể, 189 cá nhân tiêu biểu được các cấp biểu dương, khen thưởng (trong đó 13 tập thể, 12 cá nhân được Đảng ủy Khối khen thưởng; 01 tập thể, 02 cá nhân được cấp tỉnh khen thưởng).
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ủy Khối đã ban hành 17 loại văn bản khác nhau để lãnh đạo, triển khai, tổ chức thực hiện; việc tự nhận diện về mức độ suy thoái theo 3 nhóm biểu hiện đã nêu trong Nghị quyết được Ban Thường vụ Đảng ủy Khối và các cấp ủy, chi bộ cơ sở tiến hành thường xuyên, định kỳ thông qua nhiều hình thức như nắm bắt thông tin, dư luận xã hội, phản ánh của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng, đơn thư tố cáo, phản ánh kiến nghị; lấy phiếu tín nhiệm giữa nhiệm kỳ; gắn sinh hoạt cấp ủy, chi bộ với kiểm điểm tự phê bình và phê bình hằng năm để đối chiếu, tự nhận diện, đánh giá 27 biểu hiện và các mức độ suy thoái. Kết quả cho thấy, về cơ bản các cấp ủy, chi bộ cơ sở và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nghiên cứu, nắm vững các nội dung của Nghị quyết và nâng cao nhận thức về tình hình, nguyên nhân, nhận diện được những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; nắm vững mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết; từng bước có sự chuyển biến tích cực về tinh thần, trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu; tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong trong công tác, lề lối làm việc; tuy nhiên vẫn còn một số ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; do vậy đặt ra yêu cầu đối với các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi đảng viên trong Đảng bộ phải tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) một cách nghiêm túc, triệt để và hiệu quả hơn nữa.
Công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị tiếp tục được Đảng ủy Khối triển khai thực hiện có hiệu quả. Trong nhiệm kỳ, đã mở 20 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 1.932 đối tượng kết nạp Đảng; 12 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 964 đảng viên dự bị; phối hợp với Trường Chính trị tỉnh tổ chức 03 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng cho hơn 600 lượt cán bộ chủ chốt các chi, đảng bộ cơ sở; tổ chức 02 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác đảng viên; công tác kiểm tra, giám sát và việc tổ chức sinh hoạt chuyên đề theo Chỉ thị số 05-CT/TW cho 359 đồng chí bí thư chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Tuy nhiên, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn có mặt chưa thực sự đáp ứng yêu cầu; việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở một số cơ sở còn chậm đổi mới về phương pháp, chất lượng chưa cao; chất lượng làm bài thu hoạch một số đảng viên còn thấp; việc thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và các quy định của Đảng về nêu gương của cán bộ, đảng viên còn có mặt hạn chế, nhất là việc làm theo; một số cấp ủy, chi bộ chưa coi trọng đúng mức công tác đảng ở cơ sở.
Việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị được Đảng ủy Khối quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ cơ sở tham gia ý kiến với ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động nêu cao ý thức, trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu, đổi mới tác phong, lề lối làm việc, giữ vững kỷ luật, kỷ cương hành chính; tích cực tham mưu giúp lãnh đạo cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, các đề án, dự án, mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm trong các chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh tăng bình quân 9,1%/năm cao hơn mức bình quân chung của cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hóa; thu ngân sách và thu hút đầu tư đạt kết quả khá cao. Từ năm 2017, Hải Dương là một trong 16 tỉnh, thành phố tự cân đối thu, chi và có phần điều tiết về ngân sách Trung ương. Hệ thống kết cấu hạ tầng, giao thông liên tỉnh, các công trình trọng điểm được quan tâm đầu tư, tạo động lực mới cho phát triển; xây dựng, nâng cấp và phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả nổi bật; văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, khoa học & công nghệ có nhiều tiến bộ; công tác xây dựng đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có sự chuyển biến tích cực, nhất là việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã và sáp nhập các thôn, khu dân cư chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định; hệ thống một cửa điện tử, dịch vụ công trực tuyến, quản lý văn bản, thư điện tử công vụ... được triển khai thống nhất và đồng bộ 3 cấp trong toàn tỉnh. Những kết quả đạt được trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa- xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của Đảng bộ tỉnh có phần đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động trong Đảng bộ Khối với chức năng, nhiệm vụ là những cơ quan tham mưu, giúp việc và quản lý Nhà nước đầu ngành của tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ở một số tổ chức đảng người đứng đầu cấp ủy, chi bộ việc tham gia ý kiến với Thủ trưởng cơ quan lãnh đạo và giải quyết những vướng mắc đặt ra trong thực hiện nhiệm vụ chính trị có lúc, có việc chưa được thể hiện rõ nét; việc tham mưu thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu; ý thức, thái độ phục vụ trong thực thi công vụ, tinh thần chủ động, năng lực và chất lượng tham mưu của một số cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế.
Công tác tổ chức xây dựng đảng được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ Khối, bám sát các nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ VIII, các cấp ủy, chi bộ thuộc Đảng bộ Khối đã phát huy vai trò hạt nhân chính trị, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, tập trung xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; tiếp tục quan tâm đổi mới, nâng cao chất lượng sinh cấp ủy, chi bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên tiêu biểu, gương mẫu trên mọi lĩnh vực công tác, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ngay sau Đại hội, Đảng ủy Khối đã xây dựng quy chế làm việc của cấp ủy; trong quá trình thực hiện đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp quy định của Điều lệ Đảng; phân công nhiệm vụ cho các đồng chí cấp ủy viên phụ trách các lĩnh vực công tác; ban hành bộ quy chế làm việc (mẫu) phù hợp với các loại hình tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ và chỉ đạo 100% cấp ủy, chi bộ cơ sở nghiên cứu thực hiện; do đó, chất lượng xây dựng, ban hành quy chế làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ được nâng lên rõ rệt. Quy chế ban hành đảm bảo nguyên tắc hoạt động của Đảng, quy định, thẩm quyền của các tập thể, cá nhân có liên quan; xác định rõ mối quan hệ công tác giữa các chủ thể, có bố cục khoa học,... góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng đảng ở cơ sở. Về cơ bản tập thể các cấp ủy, chi bộ và cá nhân cấp ủy viên, đảng viên trong Đảng bộ Khối đã thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhất là trách nhiệm, vai trò nêu gương của người đứng đầu; thường xuyên củng cố, xây dựng và giữ vững mối đoàn kết, thống nhất nội bộ trên cơ sở nguyên tắc, quy định của Đảng.
Việc kiện toàn, củng cố tổ chức theo tinh thần Nghị quyết số 18- NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” được các cấp ủy, chi bộ quan tâm, phối hợp với Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thực hiện, đảm bảo sự thống nhất, hoạt động có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của từng cơ quan, đơn vị. Trong nhiệm kỳ, BTV Đảng ủy Khối đã phối hợp với các cấp ủy có liên quan tiến hành tiếp nhận, chuyển giao tổ chức đảng và đảng viên: Năm 2015 ra quyết định nâng cấp 01 chi bộ cơ sở thành đảng bộ cơ sở (Đảng bộ Ban Nội chính Tỉnh ủy). Năm 2017 giải thể 01 đảng bộ cơ sở để thành lập mới 01 đảng bộ cơ sở và 01 chi bộ cơ sở (Đảng bộ Văn phòng HĐND tỉnh, Chi bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh); năm 2017 tách và nâng cấp 01 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở thành chi bộ cơ sở (Chi bộ Trường Cao đẳng Y tế Hải Dương); thành lập mới 04 tổ chức cơ sở đảng (Chi bộ Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh năm 2017, Đảng bộ Ban Quản lý các dự án đầu tư xây dựng tỉnh, Đảng bộ Cục Quản lý thị trường tỉnh năm 2018, Chi bộ Văn phòng Hội Nhà báo tỉnh năm 2019); năm 2018 tiếp nhận 05 tổ chức cơ sở đảng từ Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh sau khi đã kết thúc hoạt động gồm các đảng bộ (Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh; Công ty Điện lực Hải Dương; Công ty Kinh doanh Nước sạch Hải Dương; Công ty Khai thác Công trình thủy lợi Hải Dương; Bưu điện Hải Dương). Năm 2019 phối hợp với các cấp ủy, tổ chức đảng có liên quan hoàn thành việc tiếp nhận các tổ chức đảng, đảng viên của ngành thuế từ các huyện, thành, thị ủy; tiếp nhận 03 tổ chức đảng và đảng viên từ các đảng bộ khác về; bàn giao 02 tổ chức đảng và đảng viên trực thuộc Đảng bộ Sở Giao thông vận tải về trực thuộc Thành ủy Hải Dương. Đến năm 2020, Đảng bộ Khối có 68 tổ chức cơ sở đảng (47 đảng bộ, 21 chi bộ cơ sở).
Chế độ sinh hoạt của đa số cấp ủy, chi bộ về cơ bản đảm bảo theo đúng quy định của Điều lệ Đảng, quy chế làm việc, Kết luận số 01-KL/ĐUK, ngày 13/5/2016 của Đảng ủy Khối, Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 27/7/2017 của Tỉnh ủy về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng ở cơ sở”; Kết luận số 18- KL/TW, ngày 22/9/2017 của Ban Bí thư (khóa XII) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư (khóa X) về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong tình hình mới”; Hướng dẫn số 12-HD/BTCTW, ngày 06/7/2018 của Ban Tổ chức Trung ương về “Một số vấn đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”; nội dung sinh hoạt được chuẩn bị khá toàn diện trên các lĩnh vực công tác và nhiệm vụ chính trị của cơ quan; tỷ lệ cấp ủy viên, đảng viên dự sinh hoạt đạt 90% trở lên; một số cấp ủy sau mỗi kỳ họp đều ban hành nghị quyết hoặc ra thông báo nghị quyết gửi đến các chi bộ trực thuộc để thực hiện; chất lượng các kỳ sinh hoạt cấp ủy, chi bộ từng bước được nâng lên.
Phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh được duy trì tốt; tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt TSVM (từ năm 2018 là HTTNV) trở lên bình quân hàng năm đạt 98,7% (chỉ tiêu Đại hội VIII đề ra là 80%); trong nhiệm kỳ có 09 tổ chức cơ sở đảng được Tỉnh ủy tặng Cờ gồm: Sở Xây dựng, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Báo Hải Dương, Sở Khoa học Công nghệ, Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh, Văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh, Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh, Sở Nông nghiệp & phát triển nông thôn; 46 lượt tổ chức cơ sở đảng được Tỉnh ủy tặng Bằng khen; 100 lượt tổ chức cơ sở đảng được BTV Đảng ủy Khối tặng Giấy khen.
Các cấp ủy, chi bộ đã quán triệt và thực hiện đúng quan điểm của Đảng về công tác tổ chức, cán bộ; chủ động tham gia xây dựng và lãnh đạo thực hiện việc kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cải cách chế độ công vụ, cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với việc sắp xếp lại các chi bộ ngay sau khi sáp nhập các phòng, ban, đơn vị trực thuộc; xác định vị trí việc làm phù hợp với từng cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tham gia ý kiến với Ban cán sự đảng, Đảng đoàn, lãnh đạo cơ quan về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Việc đánh giá cán bộ hằng năm, trước khi quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử, luân chuyển được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình, dân chủ, công khai. Trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã tham gia ý kiến nhận xét đối với 83 cán bộ là đảng viên thuộc Đảng bộ Khối diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử. Việc kiện toàn toàn nhân sự cấp ủy, UBKT khi có biến động được BTV Đảng ủy Khối quan tâm chỉ đạo, đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định bổ sung 03 Ủy viên BCH Đảng bộ Khối; ra quyết định chỉ định 98 lượt cấp ủy viên; chuẩn y 17 ủy viên ban thường vụ; 44 bí thư; 26 phó bí thư cấp ủy, chi bộ cơ sở; 12 ủy viên UBKT, 18 chủ nhiệm, 06 phó chủ nhiệm UBKT đảng ủy cơ sở. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy gắn với tinh giản biên chế được Ban Thường vụ Đảng ủy Khối thực hiện nghiêm túc: Năm 2017 đồng chí Nguyễn Xuân Hưởng, Phó trưởng Ban Tuyên giáo được điều động, bổ nhiệm làm Phó trưởng Ban Tổ chức (thay đồng chí Nguyễn Thị Liễu nghỉ hưu; đồng chí Phùng Thị Phin, Bí thư Đoàn TN Khối được điều động, bổ nhiệm giữ chức Phó trưởng Ban Tuyên giáo; đồng chí Phạm Thị Tươi được chuyển về UBKT). Sau khi xây dựng Đề án vị trí việc làm và được cấp trên phê duyệt năm 2017, Đảng ủy Khối đã hoàn thành việc tinh giản biên chế đảm bảo theo đúng kế hoạch, lộ trình. Về cơ bản đội ngũ cán bộ chủ chốt, cấp ủy viên, ủy viên UBKT các cấp trong Đảng bộ Khối có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, phân công nhiệm vụ cho đảng viên, tạo nguồn, phát triển đảng viên, chuyển Đảng chính thức cho đảng viên dự bị được các cấp ủy, chi bộ quan tâm, coi trọng. Trong nhiệm kỳ, đã kết nạp được 977 quần chúng ưu tú vào Đảng (vượt 30,3% so với chỉ tiêu Đại hội VIII đề ra); chuyển Đảng chính thức cho 994 đảng viên dự bị; phát thẻ đảng cho 932 đảng viên, đổi thẻ hỏng cho 73 đảng viên, cấp lại thẻ mất cho 51 đảng viên; 164 đảng viên được nhận Huy hiệu Đảng các loại: 30 năm tuổi đảng 149 đảng viên, 40 năm tuổi đảng 11 đảng viên, 45 năm tuổi Đảng 03 đảng viên và 50 năm tuổi đảng 01 đảng viên; tiến hành kiểm tra, đóng dấu kỹ thuật thẻ đảng lần thứ ba theo Kế hoạch số 14-KH/ĐUK, ngày 28/3/2016 của Đảng ủy Khối cho 2.991đảng viên. Việc kiểm điểm, phân tích, đánh giá chất lượng, xếp loại, khen thưởng định kỳ đối với đảng viên hằng năm được các cấp ủy, chi bộ thực hiện bảo đảm đúng quy định, hướng dẫn, ngày càng thực chất hơn; tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hàng năm chiếm tỷ lệ 95%, đạt chỉ tiêu Đại hội VIII đề ra. Việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng theo Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21/01/2019 của Ban Bí thư được các cấp ủy, chi bộ thực hiện nghiêm túc. Qua rà soát, sàng lọc, BTV Đảng ủy Khối đã quyết định xóa tên 18 đảng viên (Trong đó 08 đảng viên không làm thủ tục chuyển sinh hoạt Đảng, tự ý bỏ sinh hoạt Đảng).
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng trong nhiệm kỳ này tiếp tục được Đảng ủy Khối thực hiện theo Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 18/8/2014 và Quy định số 126-QĐ/TW, ngày 28/02/2018 của Bộ Chính trị và gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Điểm nổi bật trong nhiệm này là việc lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp thực hiện việc rà soát, thẩm định tiêu chuẩn chính trị đối với 595 nhân sự ứng cử tham gia cấp ủy các cấp phục vụ công tác nhân sự đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Tuy nhiên, công tác tổ chức xây dựng đảng cũng còn một số hạn chế: Một số cấp ủy, chi bộ cơ sở chưa quan tâm coi trọng đúng mức công tác xây dựng đảng ở cơ sở; đăng ký thi đua chậm thời gian quy định; chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ còn hạn chế; chưa kịp thời kiện toàn bổ sung đầy đủ cấp ủy; chưa thực hiện đầy đủ chế độ thông tin, báo cáo về Đảng ủy Khối; việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình, tham gia xây dựng nghị quyết của đảng viên chưa nhiều, còn tình trạng ngại va chạm, chưa đáp ứng được yêu cầu theo các nội dung Nghị quyết của Tỉnh ủy, Đảng ủy Khối và các văn bản hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương. Trong nhiệm kỳ có 01 tổ chức cơ sở đảng không hoàn thành nhiệm vụ. Công tác quản lý, rèn luyện, giáo dục đảng viên, phân công nhiệm vụ cho đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên chưa được chú trọng; một số cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối thiếu gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, chấp hành các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng tiếp tục được các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Khối coi trọng, thực hiện ngày càng nền nếp, chất lượng hơn. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, các cấp ủy trong Đảng bộ Khối đã kịp thời ban hành, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của ủy ban Kiểm tra phù hợp với các quy định mới của Đảng; xây dựng và ban hành chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa của cấp ủy, ủy ban kiểm tra; phổ biến, quán triệt tới đội ngũ cán bộ, đảng viên các chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy định, hướng dẫn của Đảng có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng; duy trì chế độ định kỳ nghe và thống nhất đánh giá kết quả thực hiện, tiến hành sơ, tổng kết, xây dựng phương hướng nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát hàng năm; xác định nhiệm vụ trọng tâm, đột phá là tiến hành kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm.
Trong nhiệm kỳ, Đảng uỷ Khối đã tổ chức thực hiện 08 cuộc kiểm tra đối với 86 tổ chức đảng, tập trung vào các nội dung: Xây dựng quy chế làm việc của đảng ủy, ủy ban kiểm tra đảng ủy; việc lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp; về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên”; “Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ đến năm 2020”. Trong 02 năm 2018 - 2019, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã tiến hành kiểm tra 100% tổ chức cơ sở đảng về “Việc quản lý hồ sơ đảng viên”, qua đó giúp cho các cấp ủy, nhất là cán bộ phụ trách công tác quản lý hồ sơ đảng viên nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng, trách nhiệm của tập thể, cá nhân đảng viên trong việc xây dựng, quản lý, khai thác hồ sơ theo đúng quy định, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương. Tổ chức thực hiện 06 cuộc giám sát chuyên đề đối với 18 tổ chức đảng và 16 đồng chí bí thư cấp ủy cơ sở (tăng 4 tổ chức và 10 đảng viên so trước), tập trung vào các nội dung: Việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ của đồng chí bí thư cấp ủy, chi bộ cơ sở”; việc lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng,... Cũng trong nhiệm kỳ này, Đảng ủy Khối đã đón 09 cuộc kiểm tra, 04 cuộc giám sát chuyên đề của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các ban xây dựng đảng của Tỉnh ủy; 01 cuộc kiểm tra của Ban Bí thư về công tác lãnh đạo, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII.
Uỷ ban Kiểm tra Đảng ủy Khối đã làm tốt việc tham mưu cho cấp ủy và thực hiện nhiệm vụ do cấp ủy giao; tiến hành 17 cuộc kiểm tra đối với 31 tổ chức đảng, đảng viên; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với 31 tổ chức đảng; việc thu, nộp và sử dụng đảng phí đối với 17 cấp uỷ; việc thi hành kỷ luật đảng viên đối với 17 cấp ủy (trong đó có 18 hồ sơ đảng viên bị kỷ luật); kiểm tra 03 đồng chí bí thư đảng ủy cơ sở trong thực hiện quy chế làm việc của đảng ủy, thực hiện tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống theo nhiệm vụ do cấp ủy giao. Tiến hành 15 cuộc giám sát chuyên đề đối với 34 tổ chức đảng; giám sát 03 đồng chí chủ nhiệm UBKT đảng ủy cơ sở; giám sát 14 đồng chí bí thư cấp ủy, chi bộ cơ sở; kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 02 tổ chức đảng: Đảng ủy Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh và Chi bộ Vật lý trị liệu, Đảng ủy Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh và 03 đảng viên: Đ/c Bùi Thế Hùng, Chi bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh; Đ/c Mạc Đình Thắng, Chi bộ Chi cục Kiểm lâm tỉnh; Đ/c Lã Tường Vi, Đảng bộ Bưu điện tỉnh. Tiếp nhận, xử lý 27 lượt đơn tố cáo, xem xét và quyết định thi hành kỷ luật 07 đảng viên (trong đó khai trừ 05, cảnh cáo 01, khiển trách 01). Việc xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm được thực hiện đảm bảo đúng quy định, quy trình xử lý đảm bảo chặt chẽ, hình thức áp dụng phù hợp với các vi phạm. Các ban xây dựng Đảng và Văn phòng Đảng ủy Khối đã tổ chức 08 cuộc kiểm tra đối với 30 tổ chức cơ sở đảng. Đảng uỷ cơ sở đã tiến hành kiểm tra 478 tổ chức đảng, giám sát chuyên đề 256 chi bộ; đảng ủy, chi bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở đã kiểm tra, giám sát chuyên đề 1.208 đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Các tổ chức đảng có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật 135 đảng viên. Hình thức kỷ luật: Khai trừ 07, cách chức 04, cảnh cáo 06, khiển trách 118. Nội dung vi phạm chủ yếu là vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình 110; các vi phạm khác 25; xử lý, giải quyết 10 đơn tố cáo, kiến nghị. Ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở đã kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám đối với 398 chi bộ; kiểm tra việc thu nộp và sử dụng đảng phí 344 chi bộ; kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 6 đảng viên về kỷ luật phát ngôn, thực hiện nhiệm vụ được giao, thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, vi phạm chế độ tài chính, kế toán và thành lập doanh nghiệp. Giám sát chuyên đề 29 chi bộ và 54 đảng viên.
Nhìn chung, chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng nhiệm kỳ 2015 - 2020 trong Đảng bộ Khối đã được nâng lên một bước, cơ bản đảm bảo mục tiêu, nhiệm vụ trong Kết luận số 02-KL/ĐUK đề ra. Tuy nhiên, việc xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, chi bộ, UBKT đảng ủy cơ sở chưa xác định được nhiệm vụ trọng tâm, nhầm lẫn về thẩm quyền, chưa kiểm tra việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo quy định; một số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở chưa thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với đảng viên; chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát còn hạn chế; quy trình kiểm tra, giám sát chưa đầy đủ, chặt chẽ. Việc thu thập thông tin để phát hiện, xác định và tiến hành kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm, nhất là tổ chức đảng trực thuộc và đảng viên thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý của UBKT hai cấp trong Đảng bộ Khối còn hạn chế.
Hoạt động của các tổ chức đoàn thể được Đảng ủy Khối và các cấp ủy, chi bộ cơ sở quan tâm lãnh đạo; quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng về vị trí, vai trò của các Đoàn thể trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ủy Khối đã chỉ đạo các cấp ủy, chi bộ cơ sở ban hành các nghị quyết của cấp ủy, chi bộ về “Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị”; về “Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đoàn TNCS Hồ Chí Minh” theo Kết luận số 03, 04 của Đảng ủy Khối; định kỳ nghe và cho ý kiến định hướng hoạt động của các đoàn thể; cơ cấu đại diện các đoàn thể tham gia cấp ủy; tạo điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất, thời gian cho các đoàn thể hoạt động. Nội dung, phương thức hoạt động của các đoàn thể đã từng bước được đổi mới, nâng cao chất lượng, thu hút đông đảo đoàn viên, hội viên tham gia, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng ở cơ quan, đơn vị.
Đoàn thanh niên Khối các cơ quan tỉnh đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và pháp luật cho đoàn viên thanh niên; tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao sức hấp dẫn từ các phong trào hành động cách mạng của Đoàn: “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”, "Tô thắm màu cờ Tổ Quốc", “Vì nghĩa tình biên giới, hải đảo”, “Chống rác thải nhựa”,“Ủng hộ phòng, chống Covid-19”. Vai trò của tổ chức cơ sở đoàn trong giám sát, phản biện xã hội, cải cách thủ tục hành chính, bảo vệ môi trường, trồng, chăm sóc cây xanh được duy trì tốt; lực lượng đoàn viên tại các cơ quan, đơn vị đã tích cực tham gia đội xung kích an ninh, dân quân tự vệ, phòng chống tệ nạn xã hội, xây dựng văn hóa giao thông, văn minh công sở. Trong nhiệm kỳ, Đoàn thanh niên Khối đã tổ chức thăm, tặng gần 3.000 suất quà cho các đối tượng chính sách, hoàn cảnh khó khăn với giá trị 726 triệu đồng; vận động được 1.943 lượt đoàn viên tham gia hiến máu nhân đạo, thu được 1.439 đơn vị máu; đảm nhận và thực hiện 30 công trình thanh niên với tổng giá trị 1,6 tỷ đồng. Qua các phong trào hành động cách mạng của Đoàn đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 612 đoàn viên ưu tú đã được Đảng xem xét kết nạp. Hằng năm 100% cơ sở Đoàn xếp loại vững mạnh. Từ ngày 11-12/7/2017, Đoàn thanh niên Khối các cơ quan tỉnh tổ chức thành công Đại hội lần thứ VI, nhiệm kỳ 2017 - 2022. Ban Chấp hành Đoàn thanh niên Khối khóa VI gồm 24 đồng chí; đồng chí Vũ Nguyên Đăng được bầu làm Bí thư. Tổng số tổ chức cơ sở đoàn là 50 với 3.005 đoàn viên (có 1.112 đoàn viên là đảng viên).
Công đoàn Viên chức tỉnh đã chỉ đạo công đoàn cơ sở phát huy được vai trò nòng cốt trong việc tham gia quản lý, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động; hằng năm phối hợp với Thủ trưởng cơ quan tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo thời gian, nội dung, chất lượng; phối hợp tổ chức tốt các hoạt động giao lưu văn hoá, thể thao trong cán bộ, đoàn viên; thường xuyên phản ánh ý kiến của CCVCLĐ về xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan; gắn việc thực hiện quy chế dân chủ với phát động, tổ chức các phong trào thi đua: “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; học tập nâng cao trình độ; tích cực hưởng ứng cuộc vận động người cán bộ, công chức “Trung thành, trách nhiệm, liêm chính, sáng tạo”. Ban Thanh tra nhân dân ở một số cơ quan, đơn vị đã từng bước nâng cao chất lượng hoạt động, kịp thời tiếp nhận các kiến nghị, phản ánh của cán bộ, CCVCLĐ, tập hợp báo cáo Ban Chấp hành Công đoàn để phối hợp với Thủ trưởng cơ quan xem xét, giải quyết và xử lý kịp thời. Qua các phong trào thi đua đã có 1.185 lượt tập thể đạt danh hiệu Lao động tiên tiến, 14.030 lượt cá nhân đạt danh hiệu Lao động tiên tiến, 9.090 lượt nữ đoàn viên công đoàn đạt danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Hằng năm, có 100% công đoàn cơ sở xếp loại vững mạnh. Công đoàn Viên chức tỉnh được Công đoàn Viên chức Việt Nam tặng Cờ thi đua. Ngày 17-18/01/2018, Công đoàn Viên chức tỉnh tổ chức thành công Đại hội lần thứ IV, nhiệm kỳ 2018 - 2023; Ban Chấp hành Công đoàn Viên chức tỉnh khóa IV gồm 15 ủy viên; đồng chí Lê Thị Thủy được bầu làm Chủ tịch. Tổng số công đoàn cơ sở là 49 với 4.168 đoàn viên.
Hội Cựu chiến binh Khối các cơ quan tỉnh đã chỉ đạo Hội Cựu chiến binh các cơ sở tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, động viên cán bộ, hội viên hội cựu chiến binh phát huy truyền thống, phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ”, khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; tích cực tham gia giữ gìn an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn trong cơ quan, đơn vị, xây dựng tổ chức Hội Cựu chiến binh trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh phong trào thi đua cán bộ hội viên“Cựu chiến binh gương mẫu”; quan tâm giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ; tổ chức cho cán bộ, hội viên cựu chiến binh tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, hành trình về nguồn thăm lại chiến trường xưa, gặp mặt, thăm hỏi, tặng quà cho cán bộ, hội viên CCB có hoàn cảnh khó khăn và gia đình chính sách, ủng hộ xây dựng quỹ nghĩa tình đồng đội; tặng 246 xuất quà trị giá 152 triệu đồng, ủng hộ quỹ xây dựng tượng đài “Tiếng súng đường 5” trị giá 13 triệu đồng; quan tâm kiện toàn, củng cố tổ chức Hội Cựu chiến binh cơ sở và đội ngũ cán bộ, hội viên. Hằng năm 100% tổ chức Hội Cựu chiến binh cơ sở được xếp loại trong sạch, vững mạnh. Năm 2020 Hội Cựu chiến binh Khối được Trung ương Hội CCB Việt Nam tặng Bằng khen. Ngày 04/7/2017, Hội Cựu chiến binh Khối các cơ quan tỉnh tổ chức thành công Đại hội lần thứ III, nhiệm kỳ 2017- 2022. Ban Chấp hành Hội CCB Khối gồm 15 ủy viên; đồng chí Nguyễn Đức Hạnh được bầu làm Chủ tịch. Tổng số Hội CCB cơ sở là 34 với 465 hội viên.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vai trò tham mưu cho cấp ủy của các tổ chức đoàn thể chưa chủ động; nội dung, phương thức hoạt động chưa có nhiều đổi mới, sáng tạo; một số cán bộ, đoàn viên, hội viên còn ngại học tập, rèn luyện, chưa nhiệt tình, tích cực tham gia các phong trào hoạt động chung. Việc thực hiện quy chế dân chủ, chất lượng hội nghị cán bộ công chức, viên chức ở một số đơn vị chưa cao; hoạt động giám sát và phản biện xã hội của các đoàn thể trực thuộc chưa được phát huy có hiệu quả.
Từ kết quả lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 cho thấy, với bề dày truyền thống lịch sử 70 năm xây dựng và phát triển Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh đã thường xuyên quan tâm chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng tham gia ý kiến với ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan, đơn vị lãnh đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động nêu cao ý thức, trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu, đổi mới tác phong, lề lối làm việc, giữ vững kỷ luật, kỷ cương hành chính; tích cực tham mưu giúp lãnh đạo cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
III. ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH COI TRỌNG CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG; ĐỀ CAO TRÁCH NHIỆM NÊU GƯƠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN, GÓP PHẦN XÂY DỰNG TỈNH HẢI DƯƠNG SỚM TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG (2020 - 2025)
Trong những năm tới, tình hình kinh tế - xã hội nước ta được dự báo có nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen: Tình hình thế giới, khu vực, khí hậu, thời tiết, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; các vấn đề văn hóa, xã hội, môi trường đang tạo áp lực lớn đến phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng; âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên luôn là những thách thức đối với công tác xây dựng Đảng; cuộc cách mạng 4.0 lan rộng và việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được kỳ vọng mang lại nhiều cơ hội phát triển cho kinh tế Việt Nam theo hướng ổn định và bền vững thông qua mở rộng xuất khẩu, đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ, mặc dù phải chịu những tác động tiêu cực do kinh tế toàn cầu giảm tốc khi bảo hộ thương mại và xung đột thương mại gia tăng. Cùng với những điều kiện thuận lợi của đất nước, tình hình chính trị - xã hội của tỉnh tiếp tục ổn định; tiềm lực kinh tế và các điều kiện phát triển được tăng cường, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội từng bước được đầu tư, ngày càng hoàn thiện; hệ thống chính trị ngày càng được xây dựng vững mạnh; quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Các yếu tố trên sẽ tác động đến việc triển khai, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ IX, nhiệm kỳ 2020 - 2025. Những thành tựu đạt được và bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng đảng của Đảng bộ Khối nhiệm kỳ vừa qua là tiền đề quan trọng để phát huy trong giai đoạn 2020 - 2025. Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 162-KH/TU, ngày 23/8/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII; trong hai ngày 14-15/8/2020, Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 được tổ chức trọng thể tại Trung tâm Nghệ thuật biểu diễn tỉnh Hải Dương. Có 195 đại biểu đại diện cho 4.906 đảng viên của 68 tổ chức cơ sở đảng về dự Đại hội. Có thể nói, đây là kỳ Đại hội lịch sử, tổ chức thành công, an toàn trong bối cảnh thực hiện nghiêm ngặt công tác phòng chống dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh. Với chủ đề: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên; đoàn kết, dân chủ, sáng tạo, nêu gương, góp phần xây dựng tỉnh Hải Dương phát triển nhanh, bền vững, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương”, Đại hội nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá những kết quả đạt và chỉ ra những hạn chế, yếu kém, rút ra bài học kinh nghiệm trong thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2015 - 2020 để kịp thời điều chỉnh, lãnh đạo thực hiện trong nhiệm kỳ tiếp theo.
Đại hội xác định một số chỉ tiêu chủ yếu phấn đấu hằng năm: Có 90% trở lên chi, đảng bộ cơ sở tổ chức học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đảm bảo thời gian, nội dung, chất lượng; 100% tổ chức đảng thực hiện nghiêm túc việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cánh Hồ Chí Minh; mỗi tổ chức cơ sở đảng xây dựng được ít nhất 01 tập thể, 01 cá nhân điển hình, tiên tiến; mỗi tổ chức cơ sở đảng đăng ký ít nhất 01 nội dung công việc đột phá tập trung chỉ đạo thực hiện dứt điểm trong năm; 100% cấp ủy, chi bộ thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt; 100% cấp ủy, chi bộ, ủy ban kiểm tra đảng ủy xây dựng và thực hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng; có 90% trở lên cán bộ, đảng viên thực hiện tốt bản đăng ký nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu cá nhân gắn với chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ, vai trò nêu gương của người đứng đầu; kết nạp từ 100 đảng viên mới trở lên; 90% trở lên tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ; 90% trở lên đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ; 90% trở lên tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đại hội xác định 03 công việc đột phá, đây cũng là những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm để tập trung thực hiện dứt điểm trong nhiệm kỳ gồm: (1) Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tập trung thực hiện trách nhiệm của người đứng đầu, việc đăng ký, nêu gương, làm theo của đảng viên; (2) Nâng cao chất lượng sinh hoạt, xây dựng và thực hiện nghị quyết của cấp ủy, chi bộ; gắn công tác xây dựng đảng với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; (3) Tăng cường quản lý, phân công nhiệm vụ gắn với kiểm tra, giám sát việc nêu gương và thực hiện nhiệm vụ được giao của cán bộ, đảng viên.
Đại hội đã bầu 23 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Khối khóa IX. Trong phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối đã bầu 07 đồng chí tham gia Ban Thường vụ gồm: Đồng chí Vũ Tiến Phụng, Nguyễn Thúy Hà, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Hồng Quân, Nguyễn Hữu Quang, Trần Minh Đức, Nguyễn Thị Tuyết. Đồng chí Vũ Tiến Phụng được bầu làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Thúy Hà, Nguyễn Thị Thu Huyền được bầu làm Phó Bí thư (đồng chí Nguyễn Thúy Hà được phân công làm Phó Bí thư Thường trực); bầu UBKT Đảng ủy gồm 6 đồng chí, đồng chí Nguyễn Thị Tuyết được bầu làm Chủ nhiệm. Tháng 3/2021 đồng chí Vũ Tiến Phụng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy Khối được Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều động, bổ nhiệm làm Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Thúy Hà, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Khối được Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao phụ trách Đảng ủy Khối cho đến khi kiện toàn được chức danh Bí thư Đảng ủy Khối. Tháng 7/2021 đồng chí Nguyễn Thúy Hà được Ban Thường vụ Tỉnh ủy giới thiệu ứng cử chức danh Bí thư Đảng ủy Khối và được Ban Chấp hành Đảng bộ Khối bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy Khối. Cũng trong thời gian này, tháng 9/2021 cơ quan Đảng ủy Khối tiếp nhận và phân công công tác cho 05 công chức do đã trúng tuyển sau kỳ thi tuyển công chức; bổ nhiệm lại đối với 03 cán bộ; phân công lại nhiệm vụ đối với 04 đồng chí ủy viên Ban Thường vụ và 01 đồng chí ủy viên Ban Chấp hành chuyên trách; tiến hành kiện toàn UBKT, chức danh Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy Khối; sắp xếp công tác cán bộ của Đoàn thanh niên Khối, điều chuyển công tác và giao nhiệm vụ phụ trách Đoàn thanh niên Khối cho đồng chí Phạm Thị Tươi, ủy viên BTV Đoàn thanh niên Khối cho đến khi kiện toàn được chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Khối; tiếp nhận cán bộ về làm chuyên trách Hội Cựu chiến binh Khối và kiện toàn chức danh Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Khối.
Đất nước sau 35 năm đổi mới (1986 - 2021) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặt mục tiêu, tầm nhìn dài hạn với 02 mốc lịch sử quan trọng: Đến năm 2030 kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Hải Dương có nhiều thuận lợi cơ bản nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, nhất là sự tác động, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 kể từ đầu năm 2020. Song với quyết tâm chính trị cao, khát vọng lớn, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 Hải Dương là tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo nền tảng để Hải Dương sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
Mặc dù trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh lần thứ IX còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid - 19 chưa được kiểm soát, đẩy lùi, song với bản lĩnh chính trị vững vàng, với bề dày lịch sử truyền thống xây dựng và phát triển, các cấp ủy, chi bộ và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ Khối quyết tâm đoàn kết, thống nhất, lãnh đạo, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX của Đảng bộ Khối đề ra, góp phần đưa tỉnh Hải Dương phát triển nhanh và bền vững.
KẾT LUẬN
Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh, tiền thân là Liên chi A - B - C ra đời từ đầu năm 1952 trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt. Trải qua 68 năm hoạt động (1952 - 2020) và đã nhiều lần sáp nhập, chia tách, cũng như có sự thay đổi về quy mô, cơ cấu tổ chức bộ máy với các tên gọi khác nhau, song Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh luôn bám sát đường lối cách mạng của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trong từng thời kỳ lịch sử để lãnh đạo cán bộ, đảng viên, quần chúng trong Đảng bộ thực hiện nhiệm vụ chính trị; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan và đoàn thể vững mạnh; kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia tham mưu, đề xuất với Tỉnh ủy về các chủ trương, giải pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng trong Khối.
Trong suốt chặng đường lịch sử 68 năm qua, Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh luôn nắm vững, quán triệt và cụ thể hóa tốt các chủ trương của Trung ương và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy để củng cố, xây dựng tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ trong Đảng bộ vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ chuyên môn, làm tốt chức năng tham mưu giúp Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, góp phần quan trọng vào những thành tựu của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đạt được trong các cuộc kháng chiến cứu nước trước đây và trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Từ thực tiễn xây dựng và phát triển trong 68 năm qua, Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh rút ra một số bài học kinh nghiệm lãnh đạo, cụ thể như sau:
Thứ nhất, phải nắm vững đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát chức năng nhiệm vụ được giao, vận dụng, cụ thể hóa phù hợp với tình hình đặc điểm của Đảng bộ và cơ sở trong từng giai đoạn lịch sử; làm tốt công tác xây dựng Đảng, đây là nhiệm vụ then chốt góp phần quyết định vào việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, thường xuyên quan tâm nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; coi trọng công tác quy hoạch, đạo tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ngang tầm với nhiệm vụ, nhất là người đứng đầu phải thật sự gương mẫu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nói đi đôi với làm, nêu gương cho cán bộ, đảng viên, quần chúng học tập noi theo; thường xuyên củng cố, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức và cán bộ; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.
Thứ ba, quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, chi bộ phù hợp với đặc thù của từng loại hình tổ chức đảng và nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị; đổi mới nội dung, phương thức quán triệt, triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; cụ thể hóa chương trình, kế hoạch hành động của cấp ủy cấp trên thành chương trình, kế hoạch hành động để tổ chức thực hiện phù hợp với đặc điểm tình hình của từng cơ quan, đơn vị.
Thứ tư, tăng cường và thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát với phương châm "Lãnh đạo phải có kiểm tra", trong đó coi trọng công tác kiểm tra ở cơ sở, kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; tiến hành kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm và kết luận rõ những ưu điểm, khuyết điểm để phòng ngừa và khắc phục kịp thời sai lầm, khuyết điểm; giám sát quá trình khắc phục sửa chữa khuyết điểm; kịp thời xử lý nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tư cách, qua đó tạo chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Thứ năm, thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa Đảng ủy Khối với các cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh ủy, với Ban cán sự đảng, Đảng đoàn, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc Khối trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, xây dựng cơ quan, đơn vị và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Đề cao vai trò, trách nhiệm của các đồng chí ủy viên BCH Đảng bộ Khối kiêm nhiệm được cơ cấu từ các tổ chức cơ sở đảng trong việc tham gia lãnh đạo tập thể, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất nội bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ban Chấp hành Đảng bộ Khối. Nhiều đồng chí tham gia BCH Đảng bộ Khối có sự phát triển, trưởng thành đã và đang giữ các chức danh lãnh đạo chủ chốt của tỉnh.
Thứ sáu, kịp thời tuyên truyền, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả trong thực hiện Chỉ thị số 05 - CT/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), các quy định của Đảng về vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.
PHỤ LỤC
- Đ/c Lưu Thành Nhân - Bí thư
- Đ/c Lưu Thành Nhân
- Bí thư
- Đ/c Đào Nguyên Kiệm
- Phó Bí thư
- Đ/c Tứ
* Đại hội Đảng bộ Liên chi Dân Chính đảng ngày 05/11/1957 bầu:
- Đ/c Vũ Bách
- Đ/c Hà Văn Rô (Đông)
- Phó Bí thư Thường trực
- Đ/c Trần Văn Giao
- Ủy viên Ban Thường vụ
- Đ/c Lê Duy Hựng
- Ủy viên Ban Chấp hành
- Đ/c Nguyễn Văn Kinh
- Đ/c Nguyễn Văn Thực
- Đ/c Lê Thị Ngân
- Đ/c Nguyễn Văn Minh
- Đ/c Trần Cát
- Đ/c Văn Chương
- Đ/c Hà Văn Rô
- Đ/c Nguyễn Văn Đài
* Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh do Đại hội bầu năm 1962:
- Đ/c Trần Văn Kỷ
* Ban Chấp hành lâm thời do Tỉnh ủy chỉ định (T5/1964-T2/1965)
- Đ/c Hà Văn Rô (tức Đông) - Bí thư Đảng ủy
* Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng lần thứ I bầu (T2/1965-T2/1968):
- Bí thư Đảng ủy
- Đ/c Nguyễn Văn Khoát
- Đ/c Trần Tiêu
- Đ/c Nguyễn Thanh Dương
- Đ/c Phạm Thành
- Đ/c Phạm Thị Ngân
- Đ/c Nguyễn Văn Ninh
- Đ/c Bùi Hữu Súng
* Ban Chấp hành lâm thời Dân chính đảng khi hợp nhất tỉnh do Tỉnh ủy chỉ định (T2/1968 - T11/1969) có 21 đồng chí, trong đó:
- Đ/c Lê Văn Hướng
- Đ/c Vũ Minh Phượng
- Đ/c Vũ Đức Trào
(Sáp nhập Hải Dương với Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng)
* Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng khóa I (T11/1969 - T4/1973):
- Đ/c Lê Văn Hướng - Bí thư Đảng ủy
Đại hội bầu 21 đồng chí vào BCH, trong đó có 7 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng khóa II (T4/1973-T12/1974):
- Đ/c Lê Văn Hướng - Bí thư Đảng ủy.
Đại hội bầu 17 đồng chí vào BCH, trong đó có 7 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ.
*Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng khóa III (T12/1974 - T6/1978):
- Đ/c Ngô Quang Đạo
- Đ/c Nguyễn Đức Nam
- Đ/c Doãn Thế Tịch
- Đ/c Nguyễn Văn Cừ
- Đại hội bầu 17 đồng chí vào Ban Chấp hành (từ tháng 7/1978 đến tháng 8/1983) các cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Dân chính đảng trực thuộc Thị ủy Hải Dương.
- Tháng 7/1983, Tỉnh ủy Hải Hưng quyết định thành lập 2 Đảng bộ Khối Kinh tế và Dân chính đảng và chỉ định BCH lâm thời của 2 Khối.
* Ban Chấp hành lâm thời khối Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng do Tỉnh ủy chỉ định (T7/1983-T3/1984):
- Đ/c Lê Ngọc Văn
- Đ/c Phạm Quý Tuyên
- Đ/c Khương Văn Đương
- Đ/c Nguyễn Văn Đạo
- Đ/c Nguyễn Thước
- Đ/c Nguyễn Huy Khoát
- Đ/c Nguyễn Văn Bản
- Đ/c Vũ Văn Năng
* BCH Lâm thời Đảng bộ Khối Kinh tế tỉnh Hải Hưng do Tỉnh ủy chỉ định (T7/1983-T4/1984):
- Đ/c Lê Quý Đôn
- Đ/c Nguyễn Văn Thanh
- Đ/c Đồng Chí Nam
- Đ/c Đặng Văn Lãm
- Đ/c Nguyễn Văn Trung
- Đ/c Nguyễn Văn Huy
- Đ/c Đỗ Văn Lưu
- Đ/c Đỗ Bá Khương
- Đ/c Nguyễn Công Châu
- Đ/c Nguyễn Văn Đích
- Đ/c Trần Văn Tư
* Ban Chấp hành Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng khóa I (T3/1984-T9/1985):
- Đ/c Nguyễn Thị Lâm
- Đ/c Lê Truyền
- Đ/c Lê Thị Bích Nga
* Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Kinh tế tỉnh Hải Hưng khóa I (T4/1984-T9/1985):
- Đ/c Phạm Văn Thọ
- Đ/c Đặng Văn Lâm
- Đ/c Nguyễn Hữu Lục
Đồng chí Phạm Văn Thọ, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Kinh tế kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh.
* Ban Chấp hành lâm thời do Tỉnh ủy chỉ định (T9/1985-T9/1986):
- Đ/c Lê Văn Đắc
- Đ/c Nguyễn Văn Chử
- Đ/c Nguyễn Văn Sinh
* Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Hưng khóa I (T9/1986-T1/1989):
- UVBTV, Trưởng BTC
- UVBTV, CN UBKT
- UVBTV, Trưởng BTH
- Đ/c Trần Xuân Đài
- UVBCH, Phó CN UBKT
- Đ/c Nguyễn Ngọc Minh
- UVBCH, Chánh Văn phòng
- Đ/c Nguyễn Ngọc Chiến
- Đ/c Nguyễn Thị Khéo
- Đ/c Hà Thị Nga
- Đ/c Nguyễn Văn Hướng
- Đ/c Nguyễn Trọng Xô
- Đ/c Nguyễn Thành Trung
- Đ/c Vương Như Kiên
- Đ/c Nguyễn Văn Quạt
- Đ/c Nguyễn Văn Chuyên
Tháng 3/1988, đồng chí Lê Ngọc Văn nghỉ hưu, đồng chí Phạm Quý Tuyên được bầu làm Bí thư, đồng chí Lê Văn Đắc được bầu làm Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Bản, Chủ nhiệm UBKT nghỉ hưu, đồng chí Trần Xuân Đài được bầu làm Chủ nhiệm UBKT.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Hưng khóa II (T1/1989 - T9/1991):
- Đ/c Nguyễn Côn
- Ủy viên BTV, CN UBKT
- Đ/c Vũ Thị Ké
- Ủy viên BTV, Trưởng BTC
- Đ/c Nguyễn Văn Hình
- Ủy viên BTV, Trưởng BTG
- Đ/c Lê Trọng Hách
- Đ/c Nguyễn Đình Kim
- Đ/c Lê Thị Kim Dung
- Đ/c Phạm Ngọc Chiến
- Đ/c Nguyễn Hữu Nhã
- Đ/c Lê Quang Dũng
Tháng 3/1991, đồng chí Nguyễn Côn nghỉ hưu, đồng chí Lê Văn Đắc- Quyền Bí thư.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Hưng khóa III (T9/1991-T4/1996):
- Đ/c Hoàng Hữu Vân
- TUV, Phó BTC TU, Bí thư
- Đ/c Phạm Bá Tiếm
- Đ/c Nghiêm Công Bỉ
- Đ/c Nguyễn Văn Điệp
Tháng 4/1995, đồng chí Vũ Thị Ké nghỉ chờ hưu, Tỉnh ủy phân công đồng chí Phùng Văn Hưng, cán bộ Ban Tổ chức Tỉnh ủy sang Đảng ủy Các cơ quan tỉnh và được Ban Chấp hành Đảng bộ bầu vào Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh, giữ chức Trưởng ban Tổ chức thay đồng chí Vũ Thị Ké.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Hưng khóa IV (T4/1996-T12/1996):
- Tỉnh ủy viên, Phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy
- Đ/c Phùng Văn Hưng
- Ủy viên BCH, Chánh Văn phòng
- Ủy viên BCH, Phó CN UBKT
- Ủy viên BCH, TUV, BTĐU, GĐ Sở GTVT
- Ủy viên BCH, BTĐU, GĐ Đài PTTH
- Ủy viên BCH, BTĐU, Phó GĐ Sở GDĐT
- Đ/c Trần Thị Miên
- Ủy viên BCH, BTĐU, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh
- Ủy viên BCH, BTĐU, PGĐ Bưu điện tỉnh
- Đ/c Bùi Văn Xuyên
- Ủy viên BCH, TUV, BTĐU, GĐ Sở KHĐT
- Ủy viên BCH, BTĐU, PGĐ Sở VHTT
- Đ/c Doãn Thế Cường
- Ủy viên BCH, BTĐU, Phó Văn phòng Tỉnh ủy
- Đ/c Nguyễn Văn Nhang
- Ủy viên BCH, Bí thư Đoàn TN Các cơ quan tỉnh
- Đ/c Nguyễn Công Tuân
- Ủy viên BCH, BTĐU, Phó Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy
- Đ/c Nguyễn Hữu Đoan
- Ủy viên BCH, BTĐU, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh
- Đ/c Trần Thị Thanh Mai
- Ủy viên BCH, BTĐU, PGĐ Sở Thương mại
Tháng 5/1996, Ban Thường vụ Tỉnh ủy phân công đồng chí Hoàng Hữu Vân sang làm Bí thư Thị ủy Hải Dương; đồng chí Doãn Thế Cường, Tỉnh ủy viên, Phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh thay đồng chí Hoàng Hữu Vân. Đến khi chia tách tỉnh thì đồng chí Doãn Thế Cường Cường chuyển về Hưng Yên.
* Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương do Tỉnh ủy Hải Dương chỉ định khi tách tỉnh (T1/1997-T11/1997):
- Ủy viên BCH, Trưởng BTC
- Ủy viên BCH, BTĐU, GĐ Sở VHTT
- Ủy viên BCH, PBTĐU, Phó Bí thư Tỉnh đoàn
- Thời điểm này do chưa có Bí thư nên đồng chí Phùng Văn Hưng, Phó Bí thư Thường trực phụ trách chung.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương khóa IV (T11/1997-T11/2000)
- Đ/c Nguyễn Trọng Hách
- Ủy viên BCH, BTCB, Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy
- Đ/c Nguyễn Thanh Cải
- Đ/c Phạm Thị Hải
- Ủy viên BCH, BTĐU, Phó GĐ Bảo hiểm xã hội tỉnh
- Đ/c Nguyễn Thị Thúy Nguyên
- Ủy viên BCH, BTĐU, GĐ Sở GDĐT
- Đ/c Trần Quốc Vinh
- Ủy viên BCH, BTĐU, Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh
- Đ/c Phạm Văn Hoàn
- Ủy viên BCH, BTĐU, Chánh Văn phòng UBND tỉnh
- Đ/c Nguyễn Phi Hùng
- Ủy viên BCH, BTCB, Phó Ban Nội chính Tỉnh ủy
- Từ T11/1997 – T12/1997 do chưa có Bí thư, đồng chí Phùng Văn Hưng, Phó Bí thư phụ trách chung.
- Đồng chí Hoàng Bình, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Kinh tế Tỉnh ủy được Tỉnh ủy phân công kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh từ tháng 12/1997 đến tháng 8/1998.
- Từ tháng 9/1998 đến Đại hội lần thứ V (T11/2000), Tỉnh ủy tiếp tục phân công đồng chí Hoàng Hữu Vân, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương khóa V (T11/2000 - T11/2005):
- Ủy viên BTV, Trưởng ban Tổ chức
- Ủy viên BTV, Chủ nhiệm UBKT
- Đ/c Nguyễn Thị Tỉnh
- Ủy viên BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo
- Đ/c Nguyễn Văn Thái
- Ủy viên BCH, TUV, BTĐU, PCN UBKT Tỉnh ủy
- Đ/c Ng. Thị Ngọc Bích
- Ủy viên BCH, Bí thư Đoàn Các cơ quan tỉnh
- Đ/c Phạm Văn Thoán
- Ủy viên BCH, TVU, BTĐU, GĐ Sở GTVT
- Đ/c Lê Văn Tuyến
- Ủy viên BCH, TUV, BT, Phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy
- Đ/c Đoàn Quang Định
- Ủy viên BCH, BTĐU, PGĐ Sở Tư pháp
- Đ/c Nguyễn Trọng Hữu
- Ủy viên BCH, BTĐU, Giám đốc Điện lực Hải Dương
- Đ/c Nguyễn Thành Công
- Ủy viên BCH, TUV, BTĐU, GĐ Sở Y tế
- Đ/c Quách Thị Nga
- Ủy viên BCH, BTĐU, PGĐ Sở KHĐT
- Đ/c Hoàng Văn Đoạt
- Ủy viên BCH, BTĐU, PGĐ Sở GDĐT
- Đ/c Lương Đức Trụ
- Ủy viên BCH, BTCB, Chủ tịch Hội LHKHKT tỉnh
- Ủy viên BCH, BTCB, Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy
- Đ/c Vũ Thị Chuyền
- Ủy viên BCH, Phó CN UBKT ĐU
- Từ sau Đại hội V, tháng 11/2000) đến tháng 10/2001 do chưa có Bí thư, đồng chí Phùng Văn Hưng, Phó Bí thư phụ trách chung.
- Tháng 10/2001, Tỉnh ủy phân công đồng chí Nguyễn Văn Thái, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh.
- Tháng 4/2003, Tỉnh ủy phân công đồng chí Nguyễn Văn Thái về làm Bí thư Huyện ủy Bình Giang, đồng chí Bùi Văn Dương, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tài chính về làm Phó Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy, kiêm Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh thay đồng chí Nguyễn Văn Thái.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương khóa VI (T11 /2005 – T8/2010):
- Đ/c Đào Thanh Tân
- Ủy viên BTV, Trưởng BTG kiêm CVP
- Ủy viên BCH, Phó Chủ nhiệm UBKT
- Đ/c Vũ Huy Cẩn
- Ủy viên BCH, Chủ tịch Công đoàn Viên chức tỉnh
- Đ/c Trần Minh Đức
- Đ/c Nguyễn Dương Thái
- Ủy viên BCH, BTĐU, GĐ Sở KHĐT
- Đ/c Phạm Thế Tập
- Ủy viên BCH, TUV, BTĐU, GĐ Sở Công thương
- Đ/c Lê Thị Dương
- Ủy viên BCH, BTĐU, Cục trưởng Cục thuế tỉnh
- Đ/c Nguyễn Thị Huê
- Ủy viên BCH, TUV, BTĐU, GĐ Kho bạc Nhà nước tỉnh
- Đ/c Nguyễn Huy Thái
- Ủy viên BCH, BTĐU, Viện trưởng Viện Kiểm sát ND tỉnh
- Đ/c Lưu Văn Bản
- Ủy viên BCH, BTĐU, PGĐ Sở LĐTBXH
- Đ/c Lê Văn Tạo
- Đ/c Nguyễn Thúy Hà
- Ủy viên BCH, Chánh Văn phòng Đảng ủy
Tháng 01/2007, đồng chí Nguyễn Thúy Hà được Ban Tổ chức Tỉnh ủy chuyển công tác từ Tỉnh đoàn về Đảng ủy và được BTV Đảng ủy bổ nhiệm giữ chức Chánh Văn phòng thay đồng chí Đào Thanh Tân thôi kiêm Chánh Văn phòng. Cũng trong năm 2007, đồng chí Nguyễn Dương Thái, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ được Tỉnh ủy điều về làm Bí thư huyện ủy Kinh Môn nên đồng chí Nguyễn Thúy Hà được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành. Tháng 9/2009, đồng chí Nguyễn Thị Tỉnh, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Đảng ủy được Tỉnh ủy điều động về công tác tại UBKT Tỉnh ủy; đồng chí Lê Văn Tạo, Huyện ủy viên, Trưởng phòng Lao động, Thương binh - Xã hội huyện Cẩm Giàng được Tỉnh ủy chỉ định vào Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh; Ban Thường vụ Đảng ủy phân công đồng chí Lê Văn Tạo làm Trưởng Ban Tổ chức.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hải Dương khóa VII (T8/2010 - T10/2015):
- Đ/c Nguyễn Thị Ngọc Bích
kiêm Chủ nhiệm UBKT
- Phó Bí thư kiêm Trưởng BTG
- Ủy viên BTV, Trưởng BTC kiêm Chánh Văn phòng
- Đ/c Vũ Thị Phương
- Ủy viên BTV, TUV, BTĐU, Phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy
- Ủy viên BCH, PCN UBKT ĐUK
- Đ/c Nguyễn Trí Đại
- Ủy viên BCH, BTĐU, GĐ BHXH tỉnh
- Đ/c Lê Huy Động
- Ủy viên BCH, BTĐU, PCN UBKT Tỉnh ủy
- Đ/c Nguyễn Quang Hảo
- Ủy viên BCH, BTĐU, GĐ Sở TTTT
- Ủy viên BCH, BTĐU, GĐ Kho bạc Nhà nước tỉnh
- Đ/c Nguyễn Thị Thu Huyền
- Ủy viên BCH, Bí thư Đoàn Khối các cơ quan tỉnh
- Đ/c Nguyễn Thị Liễu
- Ủy viên BCH, Phó BTC
- Đ/c Phạm Vĩnh Long
- Ủy viên Ban Chấp hành, PBTĐU, PGĐ Sở LĐ,TBXH
- Đ/c Nguyễn Hữu Lộc
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Sở TNMT
- Đ/c Nguyễn Văn Ngọc
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Sở Tài chính
- Đ/c Phạm Văn Quang
- Ủy viên BCH, PBTĐU, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh.
- Đ/c Phạm Quang Sản
- Ủy viên BCH, BTCB, Phó Chủ tịch UBMTTQ tỉnh
- Đ/c Vũ Thị Thủy
- Ủy viên BCH, BTCB, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh
- Đ/c Nguyễn Văn Tịnh
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Sở NN-PTNT
- Đ/c Nguyễn Mạnh Tưởng
- Đ/c Nguyễn Đức Việt
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Sở VH,TTDL
- Tháng 8/2010, Tỉnh ủy điều đồng chí Phùng Văn Hưng về công tác tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy và bổ nhiệm Phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy; đồng thời điều động đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Bích, Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn về công tác tại Đảng ủy Khối và giới thiệu để Đại hội bầu làm Bí thư Đảng ủy Khối; đồng chí Phạm Bá Tiếm, Phó Bí thư Đảng ủy Khối nghỉ chờ hưu.
- Sau Đại hội, tháng 9/2010 đồng chí Nguyễn Thúy Hà được Ban Thường vụ Đảng ủy Khối phân công làm Trưởng Ban Tổ chức kiêm Chánh Văn phòng; đến tháng 3/2011, đồng chí Nguyễn Thúy Hà thôi kiêm Chánh Văn phòng, đồng chí Trần Minh Đức được bổ nhiệm làm Chánh Văn phòng.
- Tháng 8/2012 đồng chí Nguyễn Thị Thu Huyền, Ủy viên Ban Chấp hành, Bí thư Đoàn Thanh niên Khối các cơ quan tỉnh được Ban Thường vụ điều động, bổ nhiệm làm Phó Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối. Tháng 9/2014, đồng chí Nguyễn Thị Thu Huyền được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ và được Ban Thường vụ phân công làm Trưởng Ban Tuyên giáo; đồng chí Đào Thanh Tân, Phó Bí thư thôi kiêm Trưởng Ban Tuyên giáo.
- Tháng 5/2015 đồng chí Đào Thanh Tân, Phó Bí thư Đảng ủy Khối nghỉ hưu.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hải Dương khóa VIII (T8/2015 - T8/2020):
- Đ/c Đặng Thị Kim Thanh
- Đ/c Vũ Tiến Phụng
- Bí thư (Từ T8/2015- T3/2020)
- Bí thư (Từ T4/2020)
- Phó Bí thư Thường trực, kiêm Chủ nhiệm UBKT ĐUK
- Ủy viên BTV, Chánh Văn phòng
- Đ/c Nguyễn Hồng Quân
- Đ/c Nguyễn Hữu Quang
- Đ/c Phan Trọng Khánh
- Ủy viên BTV, TUV, BTĐU, PCN UBKT Tỉnh ủy
- Đ/c Nguyễn Thị Tuyết
- Ủy viên BCH, PCN UBKT
- Đ/c Nguyễn Xuân Hưởng
- Ủy viên BCH, Phó Ban Tổ chức
- Đ/c Nguyễn Thị Hương
- Ủy viên BCH, Phó Chánh Văn phòng
- Đ/c Phạm Tiến Bình
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Đài PTTH tỉnh
- Đ/c Nguyễn Hoàng Dương
- Ủy viên BCH, PBTĐU, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh
- Đ/c Nguyễn Năng Hoàn
- Ủy viên BCH, PBTĐU, Phó Cục trưởng Cục thuế tỉnh
- Đ/c Phùng Thị Phin
- Ủy viên BCH, PBTCB, Bí thư Đoàn Khối CCQ tỉnh
- Đ/c Phạm Văn Phượng
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Sở GTVT
- Đ/c Mạc Minh Quang
- Ủy viên BCH, PBTĐU, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tỉnh
- Đ/c Phạm Thị Thanh Tâm
- Ủy viên BCH, PBTCB, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh
- Đ/c Nguyễn Cao Thắng
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Sở TTTT
- Đ/c Lê Thị Thủy
- Ủy viên BCH, BTCB, Chủ tịch Công đoàn Viên chức tỉnh
- Đ/c Vũ Đức Trọng
- Đ/c Nguyễn Đức Tuấn
- Ủy viên BCH, Phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
- Đ/c Nguyễn Thế Nhất
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PCN UBKT Tỉnh ủy
- Đ/c Vũ Nguyên Đăng
- Ủy viên BCH, PBTCB, Bí thư Đoàn Khối
- Đ/c Vũ Mạnh Dũng
- Ủy viên BCH, BTĐU, CTHĐQT Cty CPKD Nước sạch Hải Dương
- Tháng 3/2020, đồng chí Đặng Thị Kim Thanh, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy Khối nghỉ hưu, Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều động đồng chí Vũ Tiến Phụng, Tỉnh ủy viên, Chủ tịch UBND thành phố Hải Dương về công tác tại Đảng ủy Khối và chỉ định làm Bí thư Đảng ủy Khối.
- Trong nhiệm kỳ, đồng chí Phạm Quang Sản, Nguyễn Đức Việt nghỉ hưu, đồng chí Nguyễn Đức Tuấn được Tỉnh ủy điều chuyển công tác về làm Bí thư huyện ủy Thanh Hà, đã kiện toàn bổ sung 03 đồng chí vào Ban Chấp hành gồm: Đ/c Nguyễn Thế Nhất; đồng chí Vũ Nguyên Đăng; đồng chí Vũ Mạnh Dũng.
* Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Hải Dương khóa IX (T8/2020):
- Ủy viên BTV, CVP
- Ủy viên BCH, Phó VP
- Ủy viên BCH, Phó BTG
- Ủy viên Ban Chấp hành, PBT ĐU, PGĐ Sở GTVT
- Ủy viên BCH, PBT ĐU, PGĐ Đài PTTH tỉnh
- Ủy viên BCH, PBT ĐU, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh
- Ủy viên BCH, BTĐU, Giám đốc Sở TTTT
- Ủy viên BCH, PBT CB, Bí thư Đoàn Khối
- Ủy viên BCH, BTĐU, Chủ tịch HĐQT Công ty CPKD nước sạch Hải Dương
- Đ/c Nguyễn Hồng Quang
- Ủy viên BCH, BTĐU, Phó Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy
- Đ/c Ngô Quang Giáp
- Ủy viên BCH, BTĐU, GĐ Sở Tư pháp
- Đ/c Đỗ Duy Hưng
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Sở GDĐT
- Đ/c Vũ Ngọc
- Đ/c Vũ Thị Hà
- Ủy viên BCH, PBTĐU, PGĐ Sở NNPTNT
Họ và tên
Thời gian
Ghi chú
Từ năm
Đến năm
Đ/c Lưu Thành Nhân
1952
1954
Bí thư Liên chi A
1961
Bí thư Dân chính đảng
Đ/c Văn Chương
1964
Bí thư ĐU CCQ tỉnh
Đ/c Hà Văn Rô (Đông)
1968
Đ/c Lê Văn Hướng
1974
Bí thư Dân chính đảng hợp nhất tỉnh
Đ/c Ngô Quang Đạo
1978
Bí thư DCĐ tỉnh
Đ/c Lê Ngọc Văn
1983
1985
Bí thư ĐU Khối Dân chính đảng
1988
Đ/c Lê Quý Đôn
1984
Bí thư ĐU Khối kinh tế
Đ/c Phạm Văn Thọ
Đ/c Phạm Quý Tuyên
1989
Đ/c Nguyễn Côn
1991
Đ/c Lê Văn Đắc
Quyền BT Đảng ủy CCQ tỉnh
Đ/c Hoàn Hữu Vân
1996
Đ/c Doãn Thế Cường
Đ/c Hoàng Bình
1997
1998
Đ/c Nguyễn Văn Thái
2001
2003
Đ/c Bùi Văn Dương
2004
2005
2010
Đ/c Nguyễn Thị Ngọc Bích
2015
Bí thư ĐUK CCQ tỉnh
Đ/c Đặng Thị Kim Thanh
2020
Đ/c Vũ Tiến Phụng
2021
Bí thư ĐUKCCQ tỉnh
III. DANH SÁCH CÁC ĐỒNG CHÍ PHÓ BÍ THƯ TỪ NĂM 1952 – 2021
Đến
năm
Đ/c Đào Nguyên Kiệm
Phó BT Liên chi Dân chính đảng HD
Đ/c Tứ
1955
1956
Đ/c Vũ Bách (Quảng)
1957
1959
Phó BT ĐU CCQ tỉnh Hải Dương
Đ/c Nguyễn Văn Thực
Phó BT ĐU Dân chính đảng Hải Dương
Đ/c Vũ Đức Trào
Đ/c Vũ Minh Phương
Đ/c Nguyễn Đức Nam
Đ/c Ng. Thanh Dương
Phó Bí thư Đảng ủy
Khối Dân chính đảng, Phó Bí thư Đảng ủy CCQ tỉnh Hải Hưng
Đ/c Ng. Văn Thanh
Phó BT ĐU Khối Kinh tế HH
Phó BT Đảng ủy CCQ tỉnh HH
Đ/c Trần Xuân Đài
Phó BT Đảng ủy Các cơ quan tỉnh HH
Phó Bí thư Đảng ủy Các cơ quan tỉnh HD
Đ/c Lê Văn Tạo
Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Khối Các cơ quan tỉnh HD
Phó Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh HD
Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Khối CCQ tỉnh HD
Chức vụ
Phùng Văn Hưng
Phó Bí thư Thường trực
Phạm Bá Tiếm
Chủ nhiệm UBKT
Nguyễn Văn Điệp
Trưởng Ban Tổ chức
Nguyễn Thị Tỉnh
Trưởng Ban Tuyên giáo
Đào Thanh Tân
Chánh Văn phòng
Vũ Thị Chuyền
Phó Chủ nhiệm UBKT
Nguyễn Thị Liễu
Phó Trưởng ban Tổ chức
Nguyễn Xuân Hưởng
Chuyên viên
Vũ Thị Nga
Chuyên viên Văn phòng
Nguyễn Thị Khuyên
Kế toán
Vũ Đức Hữu
Phạm Ngọc Hòa
Lái xe
Trần Minh Đức
Bí thư Đoàn Khối
Từ T9/2002
Nguyễn T. Thu Huyền
PBT Đoàn Khối
Phùng Thị Phin
Chuyên viên Đoàn Khối
Từ T1/2001
Nguyễn Duy Cường
Chuyên viên VP
Bí thư
Phó Bí thư
T9/2009 chuyển công tác về UBKT Tỉnh ủy
Từ tháng 01/2007
Phó Trưởng Ban Tổ chức
Chuyên viên Ban Tổ chức
Từ T1/2009 là Phó VP
2009 xin nghỉ việc
T1/2009 chuyển công tác về Ban Dân vận TU
Nghỉ chế độ từ T1/2009
Nguyễn Thị Phượng
Văn thư
Nguyễn Đức Hạnh
Cán bộ Hội CCB Khối
Nguyễn Hữu Quang
Đỗ Văn Thuật
Nguyễn Hồng Quân
Chuyên viên Ban Tuyên giáo
Nguyễn Thị Hương
Nguyễn Thị Tuyết
Chuyên viên UBKT
Lê Văn Tạo
Trưởng ban Tổ chức
Từ tháng 6/2009
Nguyễn T.Thu Huyền
Phó Bí thư Đoàn Khối
Nguyễn T.Ngọc Bích
Phó Bí thư TT, CN UBKT
(Nghỉ hưu 11/2015)
Phó Bí thư, Trưởng B TG
(Nghỉ hưu từ T5/2015)
Trưởng ban Tổ chức kiêm Chánh Văn phòng
Kiêm CVP đến T3/2011
(Nghỉ hưu từ T2/2015)
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo
Từ tháng 3/2011
Phó Chánh văn phòng
Từ tháng 9/2014
Trưởng Ban Tuyên giáo từ T9/2014
Từ 3/2011
Vũ Nguyên Đăng
Phạm Thị Tươi
Chuyên viên ĐK
Đặng T. Kim Thanh
Đến T3/2020 nghỉ hưu
Vũ Tiến Phụng
Từ tháng 4/2020
Phó Bí thư Thường trực, Chủ nhiệm UBKT
CNUBKT đến tháng 8/2020
Nguyễn Thị Thu Huyền
(nghỉ hưu từ tháng 4/2017)
Phó trưởng ban Tổ chức từ 7/2017
Phó trưởng ban Tuyên giáo từ 7/2017
Bí thư Đoàn Khối từ 8/2017
Chuyên viên UBKT từ 01/2018
Chủ tịch Hội CCB Khối
MỘT SỐ THÀNH TÍCH TIÊU BIỂU
CỦA ĐẢNG ỦY KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH ĐẠT ĐƯỢC TRONG CÁC NĂM 2000 – 2020
Năm 2003: Đảng bộ Các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác xây dựng Đảng năm 2003 (Quyết định số 581-QĐ/TU, ngày 16/03/2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2005: Đảng bộ, cán bộ, công chức Các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đơn vị đạt giải Ba cuộc thi tìm hiểu 75 năm lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam (Quyết định số 789-QĐ/TU, ngày 21/01/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2009: Cơ quan Đảng ủy Các cơ quan tỉnh được UBND thành phố Hải Dương tặng Bằng khen công nhận danh hiệu Cơ quan Văn hóa cấp thành phố năm 2009 (Quyết định số 230/QĐ-UBND, ngày 03/02/2010 của UBND thành phố).
Năm 2010: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen đã có thành tích trong công tác từ năm 2008-2020, góp phần vào sự nghiệp xây dựng xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc (Quyết định số 1074/QĐ-TTg, ngày 05/7/2021 của Thủ tưởng Chính phủ); được UBND tỉnh tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương năm 2010 (Quyết định số 228/QĐ-UBND, ngày 21/01/2010 của UBND tỉnh).
Năm 2011: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được Thủ tướng Chính phủ tặng Cờ thi đua của Chính phủ đã hoàn thành xuất sắc, toàn diện nhiệm vụ công tác, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước của tỉnh Hải Dương năm 2011 (Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 26/4/2012 của Thủ tưởng Chính phủ); được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác xây dựng Đảng năm 2011 (Quyết định số 475-QĐ/TU, ngày 05/7/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy); Cơ quan Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được UBND tỉnh tặng Bằng khen đạt danh hiệu Cơ quan Văn hóa tiêu biểu năm 2011 (Quyết định số 842/QĐ-UBND, ngày 13/4/2012 của UBND tỉnh); được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Bằng công nhận cơ sở Văn hóa đạt danh hiệu “Đơn vị đạt chuẩn văn hóa” xuất sắc năm 2011 (Quyết định số 173/QKTĐ-TLĐ, ngày 01/02/2012 của Tổng LĐLĐ Việt Nam).
Năm 2012: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được UBND tỉnh tặng Cờ thi đua đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua, được khối thi đua các cơ quan Đảng tỉnh suy tôn năm 2012 (Quyết định số 210/QĐ-UBND, ngày 23/01/2012 của UBND tỉnh); được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đã đạt thành tích hoàn thành xuất sắc trong lãnh đạo, xây dựng các đoàn thể quần chúng vững mạnh năm 2012 (Quyết định số 751-QĐ/TU, ngày 01/03/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2013: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2008 đến năm 2012, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (Quyết định 1279/QĐ-CTN, ngày 25/7/2013 của Chủ tịch nước); được Tỉnh ủy tặng Bằng khen hoàn thành xuất sắc trên các lĩnh vực công tác xây dựng Đảng năm 2013 (Quyết định 1059-QĐ/TU, ngày 03/03/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy). Chi bộ Cơ quan Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đạt trong sạch vững mạnh có thành tích tiêu biểu năm 2013. (Quyết định số 1061-QĐ/TU, ngày 03/93/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2014: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc về công tác Nội chính và phòng chống tham nhũng năm 2014 (Quyết định số 1365-QĐ/TU, ngày 19/01/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy). Chi bộ Cơ quan Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đạt trong sạch vững mạnh có thành tích tiêu biểu năm 2014 (Quyết định 1416-QĐ/TU, ngày 17/03/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2015: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được UBND tỉnh tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc tiêu biểu, được khối thi đua các cơ quan Đảng tỉnh suy tôn năm 2015 (Quyết định 321/QĐ-UBND, ngày 27/01/2016 của UBND tỉnh). Chi bộ Cơ quan Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đạt trong sạch vững mạnh có thành tích tiêu biểu năm 2015. (Quyết định 104-QĐ/TU, ngày 17/03/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2016: Chi bộ Cơ quan Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đạt trong sạch vững mạnh có thành tích tiêu biểu năm 2016 (Quyết định số 289-QĐ/TU, ngày 13/01/2017 Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2017: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được UBND tỉnh tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc tiêu biểu, được khối thi đua các cơ quan Đảng suy tôn năm 2017 (Quyết định số 346/QĐ-UBND, ngày 22/01/2018 của UBND tỉnh). Chi bộ Cơ quan Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Cờ thi đua đạt trong sạch vững mạnh đã có thành tích tiêu biểu 5 năm liên tục 2013 - 2017 (Quyết định số 534-QĐ/TU, ngày 25/01/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2018: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được Thủ tướng Chính phủ Tặng cờ thi đua của Chính phủ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước năm 2018 (Quyết định số 261/QĐ-TTg, ngày 04/03/2019 của Thủ tướng Chính phủ). Chi bộ Cơ quan Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đạt trong sạch vững mạnh có thành tích tiêu biểu năm 2018 (Quyết định số 826-QĐ/TU, ngày 25/01/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy)
Năm 2019: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được UBND tỉnh tặng Bằng khen đã có thành tích tiêu biểu trong phong trào thi đua của Khối, góp phần phát triển kinh tế-xã hội địa phương năm 2019 (Quyết định số 364/QĐ-UBND, ngày 06/02/2020 của UBND tỉnh). Chi bộ Cơ quan Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đã có thành tích hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2019 (Quyết định số 1165-QĐ/TU, ngày 21/02/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2020: Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng giai đoạn 2015-2020 (Quyết định số 1482-QĐ/TU, ngày 02/10/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy). Chi bộ Cơ quan Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh được Tỉnh ủy tặng Bằng khen đã có thành tích hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2020 (Quyết định số 107-QĐ/TU, ngày 05/02/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy).
Năm 2021: Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhì đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2016 đến năm 2020, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (Quyết định số 2372/QĐ-CTN, ngày 23/12/2021).
BCH: Ban Chấp hành
BTV: Ban Thường vụ
BT: Bí thư
CB: Chi bộ
CCB: Cựu chiến binh
CCQ: Các cơ quan
CN: Chủ nhiệm
CTTL: Công trình thủy lợi
ĐU: Đảng ủy
ĐUK: Đảng ủy Khối
ĐB: Đảng bộ
GDP: Gross Domestic Product: tổng sản phẩm quốc nội
GĐ: Giám đốc
GTVT: Giao thông vận tải
HĐND: Hội đồng Nhân dân
HTTNV: Hoàn thành tốt nhiệm vụ
KHKT: Khoa học kỹ thuật
KCN: Khu công nghệp
LHPN: Liên hiệp phụ nữ
MTV: Một thành viên
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
NNPTNT: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
PBT: Phó Bí thư
PCN: Phó Chủ nhiệm
PGĐ: Phó Giám đốc
PGS: Phó Giáo sư
PHCN: Phục hồi chức năng
UVBTV: Ủy viên Ban Thường vụ
TUV: Tỉnh ủy viên
TNCS: Thanh niên Cộng sản
TBXH: Thương binh và Xã hội
TNMT: Tài nguyên và Môi trường
TTTT: Thông tin Truyền thông
TDTT: Thể dục thể thao
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TS: Tiến sĩ
TU: Tỉnh ủy
TW: Trung ương
UBND: Ủy ban Nhân dân
UBKT: Ủy ban Kiểm tra
VHNT: Văn học nghệ thuật
VHTTDL: Văn hóa - Thể thao và Du lịch
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
WTO: World Trade Organization: Tổ chức Thương mại Thế giới
KHĐT: Kế hoạch đầu tư
GDĐT: Giáo dục đào tạo
VHTT: Văn hóa thông tin
MỤC LỤC
Trang
5
CHƯƠNG I HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC LIÊN CHI ĐẢNG A-B-C, ĐẢNG UỶ DÂN CHÍNH ĐẢNG VÀ ĐẢNG UỶ CÁC CƠ QUAN TỈNH HẢI DƯƠNG (1952 -1964)
8
I. Khái quát về đặc điểm tình hình của tỉnh Hải Dương cuối thế kỷ XIX, trong thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI và sự ra đời của Ban Tỉnh ủy lâm thời
II. Quá trình vận động thành lập và hoạt động của Liên chi đảng A-B-C; Liên chi Dân chính đảng; Đảng uỷ Các cơ quan tỉnh (1952 - 1963)
11
1. Sự ra đời của Liên chi A - B - C, Liên chi Dân chính đảng và Đảng ủy Các cơ quan tỉnh
2. Hoạt động của các Liên chi A - B - C, Liên chi Dân chính đảng và Đảng ủy Các cơ quan tỉnh
16
CHƯƠNG II
ĐẢNG BỘ DÂN CHÍNH ĐẢNG HẢI DƯƠNG TÁI LẬP VÀ
CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG NHŨNG NĂM VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (T5/1964 -1968)
29
I. Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Dương được tái lập và năm đầu hoạt động
II. Công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh trong những năm cả nước có chiến tranh (1965- 1968)
34
CHƯƠNG III
ĐẢNG BỘ DÂN CHÍNH ĐẢNG TỈNH HẢI HƯNG THÀNH LẬP, CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1968-1975)
43
I. Thành lập Đảng bộ, Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ nhất và công tác xây dựng Đảng trong những năm (1968 – 1972)
II. Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ II và công tác xây dựng Đảng những năm (1973 - 1974)
55
III. Đại hội Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng lần thứ III và công tác xây dựng Đảng trong những năm 1974- 1975
61
65
I. Đảng bộ Dân chính đảng tỉnh Hải Hưng giai đoạn 1975 – 1982
II. Thành lập Đảng uỷ Khối Dân chính đảng, Khối kinh tế và công tác xây dựng Đảng trong những năm 1983 – 1985
75
81
I. Đảng bộ Các cơ quan tỉnh được tái lập và những năm đầu lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 1990)
II. Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Hưng tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới những năm 1991 – 1996
96
ĐẢNG BỘ CÁC CƠ QUAN TỈNH HẢI DƯƠNG ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI GẮN VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1997 - 2010)
110
I. Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Hải Dương tái lập và tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị những năm 1997 - 2000
II. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, đưa Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có bước phát triển vững chắc, đáp ứng sự nghiệp đổi mới của Đảng giai đoạn (2000 - 2005)
116
III. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xứng đáng với vị trí quan trọng của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh trong sự nghiệp đổi mới, góp phần xây dựng tỉnh Hải Dương giàu mạnh, văn minh giai đoạn 2005 – 2010
134
CHƯƠNG VII
153
I. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết, dân chủ và trí tuệ, xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch, vững mạnh trong thời kỳ mới (2010 – 2015)
II. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đảng viên, xây dựng Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh trong sạch, vững mạnh, góp phần xây dựng tỉnh Hải Dương sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại (2015 – 2020)
170
III. Đảng bộ Khối Các cơ quan tỉnh coi trọng chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng; đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng tỉnh Hải Dương sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (2020 - 2025)
189
193
195
MỘT SỐ THÀNH TÍCH TIÊU BIỂU ĐẠT ĐƯỢC TRONG CÁC NĂM 2000 - 2020
261
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
219
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
220
222
In 200 cuốn, khổ 17 x 24cm tại Công ty CP In Báo và Thương mại Hải Dương. Giấy phép xuất bản số 118/GP-STTTT do Sở Thông tin - Truyền thông Hải Dương cấp ngày 22 tháng 12 năm 2021. In xong và nộp lưu chiểu tháng 12 năm 2021
Nguồn: admin dang uy khoi co quan
Hôm nay: 351
Tổng lượng truy cập: 618307